Một, chênh lệch giàu, nghèo ở nước ta tăng là kết quả tất yếu của sự chuyển đổi cơ chế từ kế hoạch tập trung quan liêu và chế độ bao cấp bình quân hiện vật sang cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường đã loại bỏ dần tính bình quân bao cấp, khuyến khích làm giàu bằng việc phát huy các nguồn lực về vốn, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, sức lao động, kinh nghiệm làm ăn… Theo ý nghĩa này thì chênh lệch giàu nghèo có tăng lên cũng không có gì đáng sợ, bởi nền kinh tế mà nước ta lựa chọn là nền kinh tế thị trường.
Hai, chênh lệch giàu, nghèo tăng tương đối nhanh trong thời gian qua (bình quân mỗi năm tăng thêm gần 0,4 lần) và có xu hướng còn cao hơn trong thời gian tới. Đây mới là điều đáng lưu ý, vì nền kinh tế thị trường mà nước ta lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba, chênh lệch giàu, nghèo của nước ta tuy còn thấp hơn nhiều nước, nhưng nếu xét từ xuất phát điểm của một nước vừa mới chuyển đổi từ cơ chế hiện vật mang tính chất bình quân sang cơ chế thị trường thì không thể không đáng quan tâm. Nước Mỹ đã trải qua hơn 200 năm phát triển tư bản và hiện đứng hàng đầu thế giới về kinh tế, nhưng chênh lệch cũng mới chỉ có 9,1 lần; tài sản của tỉ phú Mỹ chỉ chiếm 6,1% GDP. Nước Nga mới chuyển đổi 15 năm, nhưng tỉ phú Nga đã chiếm tới 40% GDP. Ở Việt Nam, mới qua 20 năm đổi mới mà chênh lệch đã lên tới 8,1 lần là điều không thể coi thường.
Bốn, trong chênh lệch giàu, nghèo của nước ta còn chứa đựng những yếu tố bất hợp lý ở cả hai đầu - đầu giàu và đầu nghèo.
Ở "đầu giàu", có không ít hộ và người có những khoản thu nhập bất chính (như do buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế, do tham nhũng, do cạnh tranh không lành mạnh như ăn cắp bản quyền, kinh doanh kiểu chụp giật, lừa đảo…) hoặc những khoản thu nhập không chính đáng do kẽ hở của chính sách được hưởng từ nhà đất, từ bao cấp… mà có.
Ở "đầu giàu" cũng còn tình trạng một số người làm ăn chân chính nhưng chưa thật yên tâm bỏ vốn đầu tư trực tiếp do vẫn còn sợ "vỗ béo làm thịt", hoặc chưa được khuyến khích để làm giàu chính đáng bằng vốn, bằng sức lao động, bằng trình độ kinh nghiệm, hoặc đã xuất hiện tư tưởng thỏa mãn theo kiểu "giàu xổi" nên đã dồn cho tiêu xài, nuông chiều con cái mà chưa dồn đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh doanh.
Ở "đầu nghèo", bên cạnh không ít hộ nghèo do thiếu vốn, thiếu lao động, thiếu việc làm, thiếu kinh nghiệm, do bị rủi ro ốm đau, tai nạn, thiên tai, do cơ cấu thu nhập - vì lý do khách quan…, cũng có một số hộ còn do những nguyên nhân chủ quan, thậm chí đáng phê phán như lười làm, chi tiêu lãng phí, vung tay quá trán, đua đòi, do sinh đẻ không kế hoạch, ỷ lại vào sự trợ giúp trực tiếp của Nhà nước, của xã hội…, thậm chí sa vào các tệ nạn rượu chè, cờ bạc, nghiện hút.
Năm, về mặt tâm lý, việc đối xử không nên "vơ đũa cả nắm". Không nên "người giàu thì ghét", trái lại nếu làm giàu chính đáng còn cần phải tôn vinh, phải học tập. Cũng không nên "người nghèo thì khinh", nếu nghèo do khách quan, trái lại còn chia sẻ, hỗ trợ, đùm bọc nhưng nếu nghèo do chủ quan thì phải phê phán để tránh ỷ lại, nếu không sẽ trở lại bao cấp, bình quân - làm mất động lực của tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Để kiềm chế sự gia tăng chênh lệch giàu, nghèo, cần áp dụng nhiều biện pháp đồng bộ. Một mặt, cần có chính sách khuyến khích hơn nữa người làm giàu chính đáng, bỏ vốn ra đầu tư kinh doanh, tiết kiệm chi phí, có lợi nhuận cao để tái đầu tư và nâng cao mức sống. Khuyến khích người giàu bỏ vốn đầu tư tạo việc làm và tăng thu nhập cho người nghèo; thông qua phong trào vận động để người giàu làm từ thiện đối với người nghèo.
Có biện pháp ngăn chặn, khắc phục tình trạng làm giàu do tham nhũng, buôn lậu… Mặt khác, cần có chính sách hỗ trợ người nghèo vì những nguyên nhân khách quan về vốn liếng, kinh nghiệm làm ăn, cứu trợ khi gặp rủi ro… đồng thời phê phán, ngăn chặn các nguyên nhân nghèo do chủ quan.
Ngọc Minh
Bình luận (0)