Tuy nhiên, Việt Nam đã không bị cuốn hút vào vòng xoáy của cuộc khủng hoảng, không có ngân hàng nào bị đổ vỡ; việc phá sản hàng loạt các doanh nghiệp không xảy ra. Tình trạng mất việc và thiếu việc làm không lớn như dự báo đầu năm, nay đã thu hút trở lại. Kinh tế không bị suy thoái mà chỉ bị suy giảm về tốc độ tăng trưởng - tức là vẫn tăng trưởng dương. Tăng trưởng kinh tế sau khi bị rơi xuống đáy vào quý I/2009 (chỉ tăng 3,14% - thấp nhất so với cùng kỳ trong hai chục năm qua), từ quý II đã tăng lên với tốc độ tăng của quý sau cao hơn tốc độ tăng của quý trước (quý II tăng 4,46%, quý III tăng 5,76%, quý IV đạt trên 6,8%) và tính chung cả năm tăng 5,32%. Như vậy mô hình tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm qua đã không diễn biến theo hình chữ U, chữ W, càng không phải chữ L, mà là hình chữ V. Quan trọng hơn, tăng trưởng GDP chỉ xuống đáy trong một quý, sau đó đã vượt dốc đi lên trong 3 quý liên tiếp. Tốc độ tăng trưởng như trên là rất có ý nghĩa, khi đạt được trong điều kiện của cuộc khủng hoảng, cao nhất so với các nước trong khu vực và trên thế giới cũng chỉ có khoảng 12 nước tăng trưởng dương; khi đạt được cùng với việc kiềm chế lạm phát cả năm dưới 7%, chỉ thấp bằng một phần ba năm trước và thấp hơn mục tiêu đề ra. Tăng trưởng đạt được ở cả 3 nhóm ngành. GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo ước tính ban đầu có thể đạt trên 1.060 USD, cao hơn mức 1.034 USD của năm trước.
Đạt được kết quả trên do nhiều yếu tố và đây cũng là bài học kinh nghiệm cần được rút ra. Mục tiêu ưu tiên đã được chuyển đổi kịp thời từ kiềm chế lạm phát sang ngăn chặn suy giảm tăng trưởng kinh tế. Xác định đúng điểm yếu và chọn giải pháp chủ yếu phù hợp, trong đó nổi bật là cấp bù lãi suất. Đã có sự phối hợp tốt hơn giữa các bộ, ngành, địa phương, sự đồng thuận giữa Chính phủ, doanh nghiệp và công chúng. Bên cạnh việc xác định mục tiêu ưu tiên và giải pháp chủ yếu, đã lường đến hiệu ứng phụ để xử lý. Nội lực và ngoại lực đã được kết hợp tốt hơn: vừa tranh thủ mở rộng mặt hàng, tăng lượng xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu, vừa quay về khai thác thị trường trong nước; vừa tăng mạnh vốn đầu tư trong nước, vừa tranh thủ nguồn vốn nước ngoài (đạt kỷ lục về ODA). Đã kết hợp việc sử dụng biện pháp tình thế và biện pháp cơ bản. Đã kết hợp tốt hơn giữa “bàn tay hữu hình” của Nhà nước và “bàn tay vô hình” của thị trường. Công tác dự báo và phân tích kinh tế đã có sự chuyển động khá hơn.
Tuy đạt được nhiều kết quả, nhưng kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập và đứng trước nhiều thách thức. Lớn nhất là hiệu quả sức cạnh tranh và chất lượng tăng trưởng kinh tế còn thấp. Chưa thể chủ quan với lạm phát khi các yếu tố ở trong nước cộng hưởng với các yếu tố trên thế giới. Các cân đối kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc, cán cân thanh toán tổng thể bị thâm hụt, bội chi ngân sách tăng. Các điểm nghẽn của tăng trưởng (kết cấu hạ tầng, nguồn ngân lực, thể chế kinh tế thị trường) chưa được cải thiện đáng kể. Việc bảo đảm an sinh xã hội còn nhiều khó khăn. Việc bảo vệ và cải thiện môi trường còn yếu. “Thoát đáy, vượt dốc đi lên” có nghĩa là chưa phục hồi, muốn phục hồi, hơn nữa là phục hồi vững chắc, đòi hỏi cần rút ra những bài học kinh nghiệm những năm trước, khắc phục nhanh các hạn chế bất cập và thách thức như đã nêu trên.
Ngọc Minh
Bình luận (0)