Khuyến cáo của IMF về TTCK Việt Nam: Siết chặt hơn các biện pháp đảm bảo an toàn

01/03/2007 23:40 GMT+7

Ngày 1.3, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) đã công bố tóm tắt bản đánh giá và khuyến nghị của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) liên quan đến phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam. * Chỉ số P/E của TTCK Việt Nam quá cao so với thế giới

Theo IMF, có 2 yếu tố cơ bản dẫn tới sự phát triển chưa từng có của TTCK Việt Nam năm 2006. Thứ nhất, tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam tiếp tục được đánh giá khả quan và việc Việt Nam trở thành thành viên WTO đã thu hút vốn đầu tư gián tiếp (ĐTGT) nước ngoài tăng mạnh từ tháng 11.2006 và tiếp tục tăng trong thời gian tới nếu cơ hội đầu tư tại Việt Nam tăng lên. Thứ hai, cầu chứng khoán mạnh đã dẫn đến cổ phiếu (CP) bị định giá quá cao trong bối cảnh cung chứng khoán mới phát hành bị hạn chế. Một số yếu tố cơ bản khác có lẽ đã góp phần làm tăng mạnh định giá chứng khoán như: tốc độ hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu nhanh; những lợi ích hiệu quả thu được từ tự do hóa thương mại, cải cách thị trường sau khi gia nhập WTO, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tính minh bạch được cải thiện với việc bắt đầu áp dụng chế độ báo cáo tài chính của nhiều công ty.

Theo ước tính của IMF chỉ số giá/lợi nhuận (P/E) trung bình của 20 công ty lớn nhất (chiếm 99% lượng vốn hóa của thị trường) niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) TP.HCM là khoảng 73 tính đến tháng 1.2007. Theo đánh giá của IMF, việc xuất hiện những đợt tăng giá chứng khoán nhanh và tăng hệ số P/E là hiện tượng phổ biến trên thị trường mới nổi đang phát triển nhanh nhưng hệ số này là rất cao so với hầu hết các chuẩn mực thị trường khác: năm 2006, Ấn Độ 20,4; Trung Quốc 15,4; trung bình của thế giới là 16,2.

Đánh giá về những rủi ro liên quan đến bùng nổ TTCK, IMF nhận định: việc cho vay mua chứng khoán của ngân hàng thương mại (NHTM) không được kiểm tra và luồng vốn ĐTGT ngày càng tăng tiếp tục làm bùng nổ TTCK làm tăng rủi ro liên quan đến TTCK của NHTM và tăng khả năng TTCK có sự điều chỉnh lớn trong thời gian tới. Sự điều chỉnh có thể sẽ đe dọa đến khả năng thanh khoản của các NHTM thiếu vốn. Thậm chí, nếu NHTM đã tích lũy rủi ro liên quan đến TTCK đủ lớn thì nguy cơ rất lớn. IMF cũng đưa ra nhận xét: hiện tại, luồng vốn ĐTGT đổ vào làm cán cân thanh toán thặng dư lớn nhưng cán cân vãng lai có thể trở lại trạng thái thâm hụt lớn trong thời gian tới khi nhu cầu nhập khẩu tăng do giảm thuế nhập khẩu sau khi gia nhập WTO. Thêm vào đó, khi giá chứng khoán tiếp tục ở xu thế tăng trong một thời gian tương đối dài thì luồng vốn chảy vào lớn có thể gây khó khăn cho việc thực thi chính sách tiền tệ và tỷ giá.

Theo IMF, tính đến tháng 1.2007, chỉ số P/E trung bình của 20 công ty lớn nhất niêm yết trên TTGDCK TP.HCM là khoảng 73, rất cao so với hầu hết các chuẩn mực thị trường khác. Về vấn đề này, ông Bùi Việt - Giám đốc Công ty chứng khoán Đông Á cho rằng: "P/E không hẳn là chỉ số quan trọng. Khi quyết định mua một loại cổ phiếu (CP), các NĐT còn kỳ vọng vào một số yếu tố khác. Chẳng hạn, NĐT chấp nhận mua CP SJC (Công ty cổ phần đầu tư phát triển Đô thị và Khu công nghiệp Sông Đà - PV) ở mức cao vì kỳ vọng 1 CP được thêm 3 CP mới; NĐT chấp nhận mua CP Eximbank (Ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu Việt Nam) với giá cao gấp hơn 10 lần khi ngân hàng quyết định chia cổ tức và phân phối giá trị thặng dư bằng cổ phiếu là 56%, tức 1 NĐT sở hữu 100 CP sẽ có thêm 56 CP...".

T.Xuân

IMF cũng đánh giá các biện pháp mà Chính phủ Việt Nam áp dụng đối với TTCK nhằm hạn chế bớt sự phát triển quá nóng của thị trường nhìn chung là phù hợp. Các quy định này bao gồm: hạn chế quy mô đối với các khoản vay mới của ngân hàng để mua chứng khoán, tăng cường việc giám sát hoạt động của các quỹ đầu tư nước ngoài...

IMF khuyến cáo: để hạn chế những rủi ro phát sinh do bùng nổ TTCK, các nhà chức trách cần phải thắt chặt hơn nữa những biện pháp duy trì an toàn, đặc biệt là nên chuyển theo hướng tập trung vào quản lý rủi ro liên quan đến TTCK đối với các NHTM. Về nguyên tắc, chỉ những NHTM có cơ chế quản lý rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng tốt, có cán bộ được đào tạo tốt mới được cấp phép tín dụng để mua chứng khoán hoặc chấp nhận những rủi ro khác liên quan đến TTCK. IMF cũng đặc biệt lưu ý Chính phủ Việt Nam cần đặc biệt lưu ý duy trì tiêu chuẩn niêm yết nghiêm ngặt để đảm bảo tất cả các công ty niêm yết phải đạt yêu cầu về công bố thông tin phù hợp với những chuẩn mực quốc tế và tăng cường tính an toàn, xử phạt các giao dịch nội gián.

Kết quả giao dịch tại TTGDCK Hà Nội ngày 1.3.2007
Giá giao dịch/tăng-giảm    Đvt: (ngàn đồng/CK)

ABT

150 (0)

HBD

34,5 (+0,4)

SFC

75,5 (+3,5)

AGF

155 (0)

HMC

42,2 (+2)

SFI

226 (-8)

ALT

70 (-2)

HRC

398 (0)

SFN

48,5 (0)

BBC

56 (-2)

HTV

53,5 (+2,5)

SGC

58 (0)

BBT

21 (0)

IFS

47,3 (+2,2)

SGH

100 (-4)

BHS

53 (-1)

IMP

143 (0)

SHC

38,3 (+1,8)

BMC

270 (+12)

ITA

169 (0)

SJ1

49,4 (-2,6)

BMP

240 (+2)

KDC

216 (-11)

SJD

66,5 (+3)

BPC

35,1 (-1,8)

KHA

44,7 (0)

SJS

380 (0)

BT6

79,5 (+3,5)

KHP

43,2 (+2)

SMC

67 (0)

BTC

23 (-0,3)

LAF

22,4 (-1)

SSC

118 (+5)

CAN

35 (+0,4)

LBM

25,7 (-0,3)

STB

111 (+3)

CII

84 (-1,5)

LGC

77 (0)

TAC

64,5 (0)

CLC

67 (+3)

MCP

37,8 (+1,8)

TCR

34,2 (-1,8)

COM

78 (0)

MCV

53 (-2,5)

TCT

84 (-1)

CYC

19 (+0,9)

MHC

56 (-2)

TDH

222 (-8)

DCT

38,7 (+0,5)

NAV

198 (+9)

TMC

69 (-2)

DHA

76 (-3)

NHC

54 (+2,5)

TMS

76 (-1)

DHG

275 (-5)

NKD

177 (-1)

TNA

49,5 (-0,5)

DIC

49,6 (+2,3)

NSC

63,5 (+3)

TRI

49 (-1,5)

DMC

145 (0)

PAC

52 (-2)

TS4

47,5 (-2,5)

DNP

85 (+4)

PGC

77 (-3)

TTC

25,4 (+1,2)

DPC

48 (-0,5)

PJT

64,5 (+3)

TTP

113 (+5)

DRC

235 (+4)

PMS

36 (+1,4)

TYA

62 (-1)

DTT

57 (-3)

PNC

35 (+1,6)

UNI

51 (+2)

DXP

52,5 (-2,5)

PPC

92 (-3)

VFC

44,1 (-2,3)

FMC

91,5 (-4,5)

PRUBF1

13,9 (-0,3)

VFMVF1

44,2 (+0,2)

FPC

71 (+3)

PVD

290 (-8)

VGP

60,5 (+2)

FPT

615 (-17)

RAL

129 (0)

VID

53 (0)

GIL

93 (+4)

REE

283 (0)

VIP

87 (-3)

GMC

68 (-3)

RHC

61 (-2)

VIS

50,5 (+2)

GMD

185 (-4)

SAF

48,5 (+2,3)

VNM

198 (-4)

HAP

85,5 (+4)

SAM

234 (-2)

VPK

29 (+1,3)

HAS

95 (+4,5)

SAV

70 (-2)

VSH

84 (-1)

HAX

49 (0)

SCD

65 (+3)

VTA

21,4 (+1)

HBC

98 (0)

SDN

50,5 (0)

VTB

81 (0)

 

 

 

 

VTC

66 (-3)

HASTC-Index: 424,68 (-5,66)

Kết quả giao dịch tại TTGDCK TP.HCM ngày 1.3.2007
Giá giao dịch/tăng-giảm    Đvt: (ngàn đồng/CK)

ACB

247,8 (-4,9)

ILC

42,4 (+3,8)

SD9

115,8 (+10,1)

BBS

27,9 (+2,5)

LTC

66,2 (0)

SDA

300 (-1,5)

BCC

51,3 (-2,7)

MCO

65,2 (+5,9)

SDC

127 (-7,4)

BHV

0 (0)

MEC

52,9 (+4,8)

SDT

182,2 (+0,9)

BMI

198,6 (-16,1)

MPC

71,3 (-1,4)

SDY

60,2 (+5,4)

BTS

49,5 (-0,9)

NBC

98 (-4,3)

SGD

60,3 (-0,5)

BVS

430,7 (-8)

NLC

37,3 (+1,5)

SIC

56,8 (-2,1)

CIC

51,8 (+3,4)

NPS

0 (0)

SJE

89,7 (+1)

CID

35,8 (+3,2)

NST

54,4 (+1,4)

SNG

141,2 (+3,5)

CJC

44,8 (-0,4)

NTP

293,5 (-18,5)

SSI

220,8 (+1,7)

CMC

0 (0)

PAN

130,2 (-0,6)

STC

69,4 (+1,8)

CTB

35,6 (+3,2)

PJC

46,5 (-0,1)

STP

40,4 (+2,3)

CTN

92,5 (+0,2)

PLC

93,7 (-0,4)

SVC

158,6 (-3,1)

DAC

30,5 (+0,6)

POT

77,9 (-7)

TBC

64,6 (-3,3)

DAE

36,6 (+1)

PPG

41,2 (+3,5)

TKU

54,5 (-4,6)

DHI

43,8 (+3)

PSC

59,2 (+0,4)

TLC

89,2 (-4,9)

DTC

50,7 (+1,8)

PTC

92,4 (-6,9)

TLT

82,4 (+5)

EBS

136,4 (+0,1)

PTS

48,4 (-0,9)

TPH

50,8 (+0,4)

GHA

43,3 (+3,9)

S55

80,5 (+7,3)

TXM

43,1 (+1,2)

HAI

71,4 (-0,6)

S64

67,2 (+2)

VBH

38,6 (+0,4)

HJS

46,6 (+3,7)

S91

57,4 (+5,1)

VC2

199,2 (-13,4)

HLY

38,5 (+3,5)

S99

133,3 (+12,1)

VFR

53,4 (-0,3)

HNM

59,4 (-3,7)

SAP

36,1 (+1,9)

VMC

120,3 (-2,9)

HPC

162,5 (-2,3)

SCC

44,7 (+4)

VNC

59 (+5,1)

HPS

20,9 (+1,9)

SD3

58,3 (+2,2)

VNR

95,6 (+0,4)

HSC

84,7 (+7,7)

SD5

98,3 (+8,9)

VSP

178,4 (-7)

HTP

34,3 (+2)

SD6

75,5 (+6,8)

VTL

42,2 (+0,1)

ICF

40,5 (0)

SD7

122,9 (+6,8)

VTS

44,4 (+4)

 

 

 

 

VTV

39,9 (+3,2)

 

 

 

 

YSC

41,6 (-0,2)

VNIndex: 1123,07 (-14,62)

Hoàng Ly

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.