Có lẽ câu xuất hiện sớm nhất là "Vừa đánh trống vừa ăn cướp" (𣃣打𪔠𣃣咹刼), được viết bằng chữ Nôm, trích từ Lý Hạng ca dao trong quyển Đại Nam quốc túy (xuất bản khoảng năm 1700 - 1900) do Trần Duy Vôn chép lại năm 1964.
Đến năm 1911, trên tuần báo Revue indo-chinoise illustrée xuất hiện câu "Vừa đánh trống vừa ăn cướp", tương ứng với câu tiếng Pháp "Dès qu'il a frappé le tambour , il commence à voler" (NXB F.H. Schneider, tr.348).
Nửa thế kỷ sau đó vẫn phổ biến câu "Vừa đánh trống vừa ăn cướp", đặc biệt là đã từng được ghi nhận trong Tục-ngữ lược giải (1952) của Lê Văn Hòe (tập 1 - 3, tr.82). Từ năm 1970 trở về sau thì xuất hiện khá nhiều câu "Vừa ăn cướp vừa la làng", cụ thể là trong quyển Qua những chặng đường văn nghệ (1955 - 1969) của Đông Hoài, NXB Văn Học, 1970 (tr.96) hay quyển Nói chuyện Mỹ của C.B, NXB Quân đội nhân dân, 1972.
Trong hệ thống chữ Nôm, cướp (劫) có nghĩa là "uy hiếp để đoạt lấy", ví dụ: "Hung hăng ngoài phố trong triều. Phá nhà cướp của dập dìu vào ra" (Đại Nam quốc sử diễn ca). Câu "Vừa ăn cướp vừa la làng" nói về kẻ làm điều xấu, nhưng lại hô hoán ầm ĩ như chính mình là nạn nhân, nhằm mục đích che đậy tội lỗi, trốn tránh trách nhiệm. Câu này đôi khi có biến thể là "Vừa ăn cắp vừa la làng", tương ứng với câu Tặc hảm tróc tặc (贼喊捉贼) trong Hán ngữ - một câu có nguồn gốc từ Thế thuyết tân ngữ - Giả quyệt của Lưu Nghĩa Khánh thời Nam Tống, chuyện kể về đôi bạn trẻ tên là Ngụy Vũ và Viên Thiệu, thường xuyên hành hiệp trượng nghĩa. Đêm nọ, Ngụy Vũ theo dõi một đám cưới, anh lẻn vào vườn của chủ nhà rồi hét lên: "Có kẻ trộm". Mọi người trong nhà chạy ra xem, Ngụy Vũ tiến vào, rút kiếm cướp cô dâu. Khi ra ngoài cùng Viên Thiệu và cô dâu, bị chủ nhà phát hiện, Ngụy Vũ lại hô hoán "Bắt kẻ trộm", rồi cả nhóm cùng tẩu thoát.
Ban đầu câu Tặc hảm tróc tặc có nghĩa là "kẻ trộm kêu bắt trộm", về sau thành ngữ này được dùng để mô tả những kẻ xấu cố tình gây hỗn loạn và đánh lạc hướng mục tiêu để trốn thoát, ngoài ra còn nói về những kẻ dán nhãn người khác là kẻ xấu.
Ngoài Tặc hảm tróc tặc, còn có những thành ngữ Hán ngữ khác gần nghĩa, tương ứng với những câu tiếng Việt, chẳng hạn như:
- Đảo đả nhất ba (倒打一耙), có nghĩa là "đảo ngược tình thế", nói về việc không chỉ bác bỏ lời buộc tội mà còn đổ lỗi cho đối phương. Thành ngữ này trích từ quyển Nhi nữ anh hùng truyện của Văn Khang thời nhà Thanh.
- Điên đảo hắc bạch (颠倒黑白) là "đổi trắng thay đen", ẩn dụ cho việc bóp méo sự thật và tạo sự nhầm lẫn giữa đúng và sai. Thành ngữ này xuất phát từ bài Hoài Sa trong tập thơ Cửu chương của Khuất Nguyên thời Chiến Quốc.
- Giám thủ tự đạo (监守自盗), nghĩa là "biển thủ của công" hay "trộm cắp tài sản của người khác", một thành ngữ có nguồn gốc từ bài Hình pháp chí trong Hán thư của Ban Cố thời Đông Hán.
Cuối cùng, cần nhắc đến câu phản nghĩa của "Vừa ăn cướp vừa la làng", đó là "Đại nhân thụ quá" (代人受过), nghĩa là "nhận tội thay cho người khác", một thành ngữ có nguồn gốc từ quyển Bắc Dương quân phiệt thống trị thời kỳ sử thoại của Đào Cúc Ẩn, Hải Nam xuất bản xã (2006).
Bình luận (0)