Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, tại VN ước tính khoảng 1,2 triệu trẻ em gặp phải tình trạng khuyết tật trong độ tuổi 0 - 17 (chiếm 3,1% trẻ trong độ tuổi này).
Loại khuyết tật phổ biến nhất ở trẻ em trong điều tra tại cộng đồng là khuyết tật về vận động chiếm 22,4% và khuyết tật về nói chiếm 21,4% tổng số trẻ khuyết tật. Nguyên nhân chính của tình trạng khuyết tật ở trẻ em là khuyết tật bẩm sinh (chiếm 55 - 65%) và bệnh tật (chiếm 23,5 - 29,1%).
Có khoảng một nửa số trẻ em khuyết tật tại cộng đồng và khoảng 90% số trẻ em khuyết tật sống tại các trung tâm bị khuyết tật nặng, tình trạng đa khuyết tật gặp khá thường xuyên.
Có 3 nhóm nguyên nhân gây khuyết tật ở trẻ: trước sinh, trong sinh và sau sinh. Nhóm nguyên nhân trước sinh gồm: Bệnh của mẹ khi mang thai (vi rút, bệnh giáp trạng, ngộ độc thai, tiểu đường, chấn thương...). Ngoài ra, tuổi của mẹ trên 35 và bố trên 45 cũng có nguy cơ sinh con bị khuyết tật.
Cùng với đó, mẹ phơi nhiễm môi trường độc hại khi mang thai như các kim loại nặng, chất độc dùng trong nông nghiệp, thực phẩm, các loại thuốc, các chất kích thích như rượu, ma túy, bất thường nhiễm sắc thể, gien, chất liệu di truyền thai nhi cũng được xếp vào nhóm nguyên nhân trước sinh.
Nguyên nhân gây khuyết tật ở trẻ trong lúc sinh: can thiệp sản khoa: dùng kẹp/hút lấy thai, mổ đẻ, kích thích đẻ...; trẻ đẻ non (dưới 37 tuần), thiếu ô xy não (ngạt), cân nặng khi sinh thấp (dưới 2.500 gram), trẻ bị vàng da nhân não do bất đồng nhóm máu…
Nguyên nhân sau sinh: trẻ bị chấn thương sọ não, chảy máu não, nhiễm trùng thần kinh, suy hô hấp, sốt cao co giật, phơi nhiễm các yếu tố môi trường độc hại như hóa chất, thuốc trừ sâu, kim loại nặng có nguy cơ bị khuyết tật.
Theo Bộ Y tế, nếu được phát hiện sớm và can thiệp sớm, nhiều trẻ sẽ phục hồi tốt và trở thành trẻ bình thường, như trường hợp trẻ bị bàn chân khoèo bẩm sinh hoặc trật khớp háng bẩm sinh, trẻ tự kỷ nhẹ có chỉ số IQbình thường.
Một số trẻ khuyết tật khác có thể phát triển được các kỹ năng gần như trẻ bình thường, như chậm phát triển vận động, ngôn ngữ so với tuổi, bại não liệt nửa người hoặc hai chân mức độ nhẹ.
Một số bệnh nhi nặng cũng được phục hồi, cải thiện kỹ năng và có thể hội nhập xã hội. Đơn cử như trẻ bại não thể co cứng nặng sẽ không bị co rút biến dạng khớp, tuy không đi lại được nhưng ngồi xe lăn vẫn có thể đi học.
Tại hướng dẫn vừa ban hành, Bộ Y tế đưa ra các phương pháp sàng lọc phát hiện sớm và can thiệp trẻ khiếm thính, trẻ bị chậm ngôn ngữ, trẻ khuyết tật về nhìn, trẻ khuyết tật về trí tuệ và các khuyết tật khác.
Bình luận (0)