Mênh mang miền ký ức

21/10/2011 08:20 GMT+7

(TNTS) Vương Gia Vệ là chuyên gia làm phim... lỗ của Hồng Kông. Ông bắt tay vào dự án nào là nhà sản xuất hồi hộp chờ đợi rồi khóc ròng. Thế nhưng vị đạo diễn 53 tuổi chuyên đeo mắt kính đen luôn được đánh giá là một trong số những nhà làm phim tài năng nhất châu Á và cả thế giới. Trong số 9 phim của ông từ năm 1988 đến nay thì có đến 6 xuất phẩm lọt vào danh sách 100 phim hay nhất của điện ảnh Hoa ngữ do Ban tổ chức giải Kim tượng danh giá bầu chọn năm 2005.

Phim của Vương không khó hiểu nhưng khó xem, không có cốt truyện liền mạch hay tình tiết gay cấn, mà chủ yếu dựa vào tâm lý nhân vật và hình ảnh tuyệt đẹp để đưa khán giả vào một thế giới cảm xúc khi u nhã, lúc khốc liệt.

Từ phim đầu tay Vượng Giác tạp môn (As Tears Go By, 1988) đến phim mới nhất My Blueberry Nights (2007, đây là phim tiếng Anh đầu tiên của Vương Gia Vệ), tất cả đều xoay quanh một chủ đề không bao giờ cũ: ký ức. Ký ức của thân phận, hoài niệm về tình yêu. Các nhân vật của Vương Gia Vệ đều bị ám ảnh bởi quá khứ, bởi nỗi khắc khoải vì cứ nhớ và tuyệt vọng khi không thể quên. Họ cứ đi mãi, tìm kiếm mãi để có thể chạy trốn quá khứ nhưng trên con đường lang thang vô tận, người ta lại gặp nhau, lại yêu, lại tạo ra những tầng lớp ký ức mới, không thể nào dừng lại. Đó là những con chim không chân, “Cứ bay mãi bay mãi, không ngừng nghỉ... chỉ đáp xuống một lần trong đời... Đó là khi chết đi”, (A Phi chính truyện - Days of Being Wild, 1990).

 


Ảnh: wikimedia

Hoa dạng niên hoa (In the Mood for Love, 2000) là phim được khán giả quốc tế biết đến nhiều nhất của Vương Gia Vệ. Lấy bối cảnh Hồng Kông trong thập niên 1960, bộ phim kể về mối tình tuyệt đẹp, nên thơ và khắc khoải của hai nhân vật chính do Lương Triều Vỹ và Trương Mạn Ngọc thủ vai. Nếu nghĩ xa một chút, bộ phim không chỉ là ký ức hay thân phận của các nhân vật mà là tiếng lòng của đạo diễn về cả đất Hồng Kông. “Hoa dạng niên hoa” dịch nghĩa đen là “tháng ngày vui vẻ trôi đi như những cánh hoa”. Với Vương, thập niên 1960 là khoảng thời gian tươi đẹp nhất của một Hồng Kông nửa u nửa Á, vừa phấn khích vừa hoang mang trước và sau năm 1997 với câu hỏi: “Tụ họp, quay về rốt cuộc là hân hoan hay bi kịch?”.

Trong khi đó, Đông Tà Tây Độc (Ashes of Time, 1994) là bộ phim “lừa tình” nhất. Thoạt tưởng đây là bộ phim dựa theo tác phẩm của Kim Dung nhưng thực chất, đạo diễn chỉ giữ lại tên tuổi của các nhân vật. Còn thì không có chút hơi hướng kiếm hiệp nào. Rất ít gió tanh mưa máu, không có tranh quyền đoạt lợi, chỉ có những con người trăn trở với tình yêu, với quá khứ, với cuộc hiện sinh trong 100 phút diễm lệ như tranh của nhà quay phim người Úc Christopher Doyle.

Hiện nay, người hâm mộ đang hồi hộp chờ đợi tác phẩm mới nhất của Vương Gia Vệ có tên Nhất Đại Tôn Sư (The Grandmasters) đang trong giai đoạn hậu kỳ. Sẽ rất lạ vì đây là một phim võ thuật với Lương Triều Vỹ thủ vai võ sư Vịnh Xuân quyền Diệp Vấn. Hồi hộp vì không biết lần này có phải là phim võ thuật thật không hay lại “trá hình” như Đông Tà Tây Độc, “chàng mong manh” Lương Triều Vỹ sẽ đấm đá ra sao... Chưa kể một số xuất phẩm võ thuật, lịch sử Hoa ngữ gần đây thường bị đánh giá là tuyên truyền hơi quá về cái gọi là “tinh thần và sức mạnh Trung Quốc”. Hy vọng với một tác giả như Vương Gia Vệ thì Nhất Đại Tôn Sư sẽ không khiến người yêu điện ảnh “trong sáng” phải lắc đầu ngán ngẩm.

Trọng Kha

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.