Sáng 27.3, Học viện Chính trị (Bộ Quốc phòng) phối hợp Báo Quân đội nhân dân, Viện Lịch sử Đảng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) tổ chức Hội thảo khoa học "Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và tầm vóc thời đại".
ÍT NGƯỜI NGHĨ Việt Nam MỞ CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
Phát biểu tại hội thảo, trung tướng, PGS-TS Nguyễn Văn Bạo, Giám đốc Học viện Chính trị, cho biết trước những biến chuyển mới của tình hình chiến sự, ngày 6.12.1953, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ với bí danh là "Trần Đình". Đảng ủy Mặt trận được thành lập gồm Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái, Chủ nhiệm Chính trị Lê Liêm, Chủ nhiệm Cung cấp Đặng Kim Giang. Đại tướng Võ Nguyên Giáp được giao giữ chức Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy mặt trận.
Điện Biên Phủ trở thành điểm hẹn lịch sử, nơi cả địch và ta chấp nhận một trận quyết chiến chiến lược. "Từ chủ trương chọn nơi địch sơ hở mà đánh trước đó đến quyết định đánh vào chỗ mạnh nhất của địch ở Điện Biên Phủ để tiêu diệt chúng là một chủ trương táo bạo, kịp thời và đầy sáng tạo, là quyết tâm chính trị cao của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh", PGS-TS Nguyễn Văn Bạo khẳng định.
Tham luận tại hội thảo, đại tá, TS Nguyễn Văn Trường, Chủ nhiệm khoa Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị, nhận định việc mở chiến dịch Điện Biên Phủ cách đây 70 năm là một quyết định chính xác, thể hiện quyết tâm cao, tầm nhìn chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, mở đường cho thắng lợi Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu". Ông Trường phân tích, không phải tự nhiên tướng Henri Navarre chọn Điện Biên Phủ làm nơi quyết chiến chiến lược. Bởi theo tính toán của các tướng lĩnh Pháp, nếu một trận quyết chiến chiến lược diễn ra tại đây, với những ưu thế vượt trội về nhiều mặt vào thời điểm đó, quân Pháp chắc chắn sẽ giành thắng lợi trước quân đội Việt Minh.
"Trong giới chuyên gia quân sự thế giới thời điểm đó, ngay cả phía các bạn Liên Xô, không nhiều người tin rằng Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ hạ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm này. Quyết định tấn công vào Điện Biên Phủ đã thể hiện ý chí quyết tâm rất cao của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc hướng tới một trận quyết chiến chiến lược với thực dân", ông Trường nhìn nhận.
Cạnh đó, theo ông Trường, quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ đã thể hiện một tư duy quân sự sắc sảo, trí tuệ tuyệt vời của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chỉ đạo chiến tranh cách mạng. "Quyết định tiến công vào Điện Biên Phủ là một quyết định được đưa ra với những tính toán cực kỳ kỹ lưỡng. Chính sự tính toán rất khoa học này đã làm nên thành công của chiến dịch", ông Trường phân tích và cho hay khi hạ quyết tâm tiến công Điện Biên Phủ, T.Ư Đảng và Bộ Chính trị không chỉ nhìn nhận những chỗ mạnh của địch, những khó khăn, trở ngại của ta mà còn phân tích thấu đáo trên mọi phương diện để thấy được chỗ yếu của quân địch mà ta có thể lợi dụng, thấy được khả năng to lớn của quân đội và nhân dân ta có thể vượt qua; đồng thời, chỉ ra được những thuận lợi mang tính quyết định của ta.
Ông Trường dẫn chứng, trong báo cáo của Tổng Quân ủy trình Bộ Chính trị ngày 6.12.1953, Tổng Quân ủy đã khẳng định: "Trận Điện Biên Phủ sẽ là một trận công kiên lớn nhất từ trước tới nay... sự chuẩn bị có nhiều khó khăn, cần ráo riết tập trung lực lượng mới làm kịp, nhưng nếu kiên quyết khắc phục khó khăn, hoàn thành được chiến dịch thì thắng lợi này sẽ là một thắng lợi rất lớn". Đề xuất của Tổng Quân ủy sau đó đã được Bộ Chính trị phê chuẩn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp: "Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được".
ĐỈNH CAO NGHỆ THUẬT TÁC CHIẾN
Phân tích về đặc sắc quân sự Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ, thiếu tướng, TS Trần Minh Tuấn, Phó viện trưởng Viện chiến lược Quốc phòng, cho biết khi Bộ Chỉ huy quân sự của Pháp chọn Điện Biên Phủ với ý đồ chiếm giữ vị trí chiến lược hết sức quan trọng nhằm thu hút, tiêu diệt lực lượng chủ lực của ta, Bộ Chính trị đã phân tích và kết luận, Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh nhưng có 2 nhược điểm lớn. Thứ nhất là tính cứng nhắc, thụ động của hệ thống phòng ngự bằng tập đoàn cứ điểm. Nhược điểm này cho phép ta tập trung sức mạnh tiêu diệt và bẻ rời từng cứ điểm để làm suy yếu địch. Hai nữa là tính cô lập của "con nhím Điện Biên Phủ". Nếu đường không bị cô lập hay cắt đứt nó sẽ nhanh chóng mất sức chiến đấu.
Phân tích đánh giá đúng tình hình, Đảng ta nhận định: Đây là cơ hội đánh tiêu diệt lớn để từ đó có thể chấm dứt chiến tranh nên T.Ư Đảng đã "tương kế, tựu kế", hạ quyết tâm phải tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ để tạo bước ngoặt mới trong chiến tranh trước khi đế quốc Mỹ can thiệp sâu hơn vào Đông Dương.
Ông Tuấn cũng cho rằng việc thay đổi phương châm tác chiến là nét đặc sắc, sáng tạo nhất và quyết định trực tiếp đến thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ. Từ nghiên cứu, đánh giá tình hình thực tế và so sánh tương quan lực lượng trên chiến trường, Bộ Chỉ huy chiến dịch đã cân nhắc và rất khó khăn mới đưa ra quyết định chuyển từ phương châm "đánh nhanh, giải quyết nhanh" sang "đánh chắc, tiến chắc".
Cũng theo thiếu tướng Tuấn, vấn đề quan trọng nhất có ý nghĩa quyết định là phương pháp lần lượt tiêu diệt từng tiểu đoàn hoặc một số tiểu đoàn địch nằm trong hệ thống tập đoàn cứ điểm; công tác xây dựng hệ thống trận địa tiến công và bao vây; sử dụng mọi biện pháp để triệt đường tiếp tế hậu cần, đánh vào cái "dạ dày" của địch…
Điểm phát triển đặc sắc nữa của nghệ thuật chiến dịch là xác định đúng thời cơ đánh đòn quyết định cuối cùng. Khi phát hiện địch có triệu chứng tháo chạy, lập tức hình thành lực lượng thọc sâu, đánh thẳng vào sở chỉ huy của địch, bắt tướng chỉ huy và bộ tham mưu của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đây là những chiến thuật do bộ đội ta sáng tạo ra trong quá trình đánh địch ở Điện Biên Phủ đã đưa đến thắng lợi của chiến dịch, được khái quát trong công thức "vây - lấn - tấn - phá - triệt - diệt".
"Đánh theo cách này, ta có điều kiện tập trung ưu thế binh, hỏa lực trong từng trận, tạo nên sức mạnh áp đảo để thắng địch. Đứng về nghệ thuật chiến dịch cũng như về chiến thuật, có thể nói rằng với trận Điện Biên Phủ, quân đội ta đã thực hiện một bước nhảy vọt về chất. Đó là sự vận dụng những chiến thuật mới, những chiến thuật có ý nghĩa chiến dịch nhằm giải quyết yêu cầu tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ", ông Tuấn nhìn nhận.
Thường trực Ban Bí thư kiểm tra công tác chuẩn bị kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ
Chiều 27.3, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng ban Tổ chức T.Ư Trương Thị Mai - Trưởng ban Chỉ đạo T.Ư kỷ niệm các ngày lễ lớn và sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước, dẫn đầu đoàn công tác có chuyến thăm, làm việc tại Điện Biên. Tại đây, Thường trực Ban Bí thư cùng đoàn công tác và lãnh đạo tỉnh đã đi kiểm tra công tác chuẩn bị phục vụ các hoạt động kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ tại Đồi A1, Sân vận động tỉnh - nơi diễn ra Lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ và một số tuyến đường phục vụ cho lễ diễu binh, diễu hành.
Cùng ngày, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng ban Tổ chức T.Ư Trương Thị Mai có buổi làm việc với Đảng đoàn, Thường trực T.Ư Hội Cựu chiến binh VN. Thường trực Ban Bí thư đề nghị trong thời gian tới, các cấp Hội tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Hội, trong đó tập trung vào những bài học kinh nghiệm đã rút ra trong văn kiện Đại hội về sự lãnh đạo của Đảng.
TTXVN
Phân tích các bài học từ chiến thắng Điện Biên Phủ, PGS-TS Trịnh Thị Hồng Hạnh, Viện Lịch sử Đảng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), cho hay trong chiến dịch Điện Biên Phủ, hàng chục vạn đồng bào đã hăng hái đi dân công, thanh niên xung phong, tham gia làm đường, vận tải, phục vụ chiến trường. Qua đó, bảo đảm hậu cần cho một mặt trận xa hậu phương 700 cây số, điều kiện đường sá khó khăn, phương tiện vận tải thô sơ, địch đánh phá ác liệt.
Đã có 261.453 dân công (lớn nhất từ trước đến thời điểm đó) với hơn 18 triệu ngày công đã tham gia chiến dịch. Các phương tiện vận tải được huy động tối đa: 628 ô tô, 11.800 thuyền bè, 20.911 xe đạp thồ, 500 ngựa thồ, hàng ngàn xe trâu bò kéo, 25.056 tấn gạo được huy động cung cấp cho mặt trận, trong đó, đồng bào Tây Bắc mới được giải phóng đã đóng góp 7.300 tấn gạo.
Bình luận (0)