Ông kể về quá khứ với giọng trầm, đều và chậm rãi. Tôi càng nghe, càng cảm nhận một sức sống kỳ lạ không gì có thể bẻ gãy.
Tuổi thơ của ông Võ Văn Em trong tiếng súng và vùng đất của ý chí
"Tôi sinh ra ở Củ Chi, lớn lên trong vùng giải phóng", ông bắt đầu câu chuyện, ánh mắt như nhìn xuyên qua năm tháng. "Hồi tôi 7 - 8 tuổi, giặc nó bắn giết, đốt nhà, cướp của… nhiều người trong xóm tôi bị giết lắm. Mấy anh tôi đi kháng chiến, gia đình thì nuôi cán bộ. Lớn lên trong vùng như vậy, làm sao không theo cách mạng được".
Ông kể bằng giọng nhẹ nhàng, nhưng mỗi câu lại là một ký ức. Nhà ông nằm trong ấp Mũi Lớn - một vùng "đảo" giữa cánh đồng, nơi địa đạo luồn dưới tre gai, nơi những cuộc họp bí mật của cán bộ thành ủy diễn ra ngay trong khu vườn nhà ông từ khi ông mới 11, 12 tuổi. "Tôi bị hư một mắt từ nhỏ, nhưng chính nhờ một mắt mà địch ít để ý tới tôi", ông cười nhẹ, nhưng giọng thì trĩu xuống: "Tật nguyền vậy chứ tôi mê đọc sách lắm. Sách của cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… đọc rồi thấy thương nước mình, thương dân mình".
Tôi gợi chuyện: "Con trai 15 tuổi thời bây giờ còn đang học THCS. Còn hồi đó chú đã đi đánh giặc?". Ông cười: "Hồi đó tôi 15 tuổi được kết nạp Đoàn. 16 tuổi thì mấy anh cho vô du kích. Hồi đầu đâu có súng, chỉ được xách trái lựu đạn thôi". Cách ông kể thật như hơi thở. Lần đầu tiên được giao 2 quả lựu đạn, ông gài ngay trước đồn địch. Khi tiếng nổ vang lên trong đêm, 2 lính địch chết tại chỗ. Đó là trận đánh đầu tiên của chàng thiếu niên gầy gò, một mắt, mới 16 tuổi.
Năm 1963 ông được kết nạp Đảng sau trận đánh lấy được hơn 20 khẩu súng - một chiến công vang dội ở Củ Chi thời đó.

Ông Võ Văn Em (giữa) cùng nhóm phóng viên Báo Thanh Niên
ẢNH: NGỌC DƯƠNG
Trinh sát nội đô - đối diện cái chết từng ngày
Khi 20 tuổi, ông Em được đưa vào Sài Gòn hoạt động trinh sát vũ trang… Tôi hỏi ông về trận đánh từng khiến báo chí Sài Gòn năm ấy chấn động - vụ ám sát dân biểu, ứng viên Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Trần Văn Văn.
Ông ngồi lặng vài giây. Rồi chậm rãi kể bằng giọng trầm đều nhưng ánh mắt sáng lên như vừa nhìn lại những ngày máu lửa. "Cái trận đó… không dễ đâu. Làm ba bữa mới đánh được", ông bắt đầu.
Ông kể: Kế hoạch ban đầu là phục kích ở trước căn nhà nơi Trần Văn Văn ở. Nhưng ngày thứ nhất, lính Mỹ đứng gác ngay cửa, không thể ra tay. Ngày thứ hai, ông và đồng đội đuổi theo nhưng xe Trần Văn Văn chạy quá nhanh. "Xe mình là xe 50, súng lại nhỏ xíu, bắn không trúng được", ông kể và cười.
Đến ngày thứ ba, ông quyết định tạm ngừng: "Hai ngày rồi, đánh nữa là nó phục kích bắt mình liền". Nhưng chính ông, với kinh nghiệm bám sát đối tượng, đã nghĩ ra một phương án khác: chặn đầu xe. "Tôi theo dõi rất kỹ đường đi của Trần Văn Văn, rồi tôi lên phương án", ông nói.
Sáng hôm đó, ông cùng đồng đội chở nhau đến đường Phan Thanh Giản (nay là đường Điện Biên Phủ). "Tôi thấy xe chở Trần Văn Văn vừa ra là tôi chạy lên trước, chặn đầu xe để đồng đội bắn". Sau loạt súng, ông và đồng đội rút. Ngay sau đó diễn ra cuộc rượt đuổi giữa cảnh sát và ông cùng đồng đội trên đường phố. Và rồi một chiếc xe Jeep quân cảnh lao tới, đâm thẳng vào xe Honda của ông. Ông bị hất văng xuống đường. "Đồng đội tôi rớt cây súng, tôi chụp liền, chĩa vào tụi cảnh sát. Súng còn có một viên đạn", ông nhớ lại.
"Viên đạn bị lép… tụi nó nhào vô bắt tôi", ông kể tiếp. Lúc đó đồng đội đã chạy thoát. Và rồi ông bị đánh ngay trên đường, tiếp đó là những tuần lễ tra tấn dã man tại trại giam. Tôi hỏi ông: "Lúc chặn đầu xe của Trần Văn Văn, chú có sợ không?". Ông ngẩng lên, nở nụ cười rất nhẹ, rất hiền: "Sợ hả? Ờ… mình đi đánh là xác định rồi. Không chết thì bị thương, không bị thương thì bị bắt. Chấp nhận trước". Một câu trả lời bình thản, nhưng bên trong là thép.
Ông Em bị đưa vào phòng thẩm vấn, đối mặt trực tiếp Nguyễn Ngọc Loan - viên tướng khét tiếng của chế độ Việt Nam Cộng hòa. "Hai tuần lễ, tôi bị đánh chết đi sống lại. Có lúc tôi nghĩ chết luôn thì cũng đỡ. Sống mà chịu đòn kiểu đó chịu không nổi", ông kể. Thế nhưng, chính trong những thời khắc đau đớn nhất ấy, ông vẫn giữ một điều: không khai, không để lộ tổ chức, không để một ai phải chết vì mình.
Ông kể có lần tướng Nguyễn Ngọc Loan nói với cấp dưới bên ngoài phòng giam ông nghe được: "Cả đám tụi bây mà không điều tra ra cái thằng Việt Cộng con này. Tụi bây là đồ ăn hại. Đem xử lý nó đi"…
Một lần, sau trận tra tấn kéo dài, lính mở cửa, đặt xuống cho ông một chén cháo trắng. Ông kể: "Tôi nhìn chén cháo mà cũng sợ - sợ bị bỏ thuốc. Nhưng nghĩ lại, thôi chết cũng được. Thế là ăn. Ăn xong… tôi sống".
Sau nhiều lần thẩm vấn mà không khai thác được gì từ ông, một lần thẩm vấn viên nói: "Tao nói mày cái này nè. Cái thằng mướn mày nó là Việt Cộng. Bây giờ mày nói nó là Việt Cộng đi để tao làm hồ sơ. Chứ mày cứ nói lính hoài là tao xử lý mày đó". Ông trả lời: "Thì các ông nói Việt Cộng thì là Việt Cộng".
Và rồi sau khi không khai thác được gì, đối phương lập hồ sơ đưa ông ra tòa, tuyên án tử hình.

Ông Em kể về trận đánh ở nội đô Sài Gòn thời chiến
ẢNH: NGỌC DƯƠNG
Chí Hòa - Côn Đảo: 8 năm trong bóng tối của tử tù
Khi ông bước vào phòng tử tù Chí Hòa, đã có hai người trong đó. Họ cũng là tử tù, đều chờ ngày thi hành án. "Lúc đó, tôi nghĩ chắc mình cũng giống mấy ảnh thôi", ông kể.
Cuối năm 1967, ông bị đưa ra Côn Đảo. "Ngay ngày đầu, tôi bị đánh từ trại xuống đến hầm đá, bị lột quần áo, còng suốt ngày đêm. Trong hầm đá chỉ rộng hơn một chiếc hòm, một khe sáng nhỏ xíu làm cửa sổ, tôi nằm nghe tiếng thở của chính mình, nghe sự sống bị bào mòn từng đêm", ông nhớ lại.
Tôi hỏi: "Có khi nào chú tuyệt vọng không?". Ông trả lời với giọng dứt khoát và mạnh lên: "Không. Nếu mình tuyệt vọng, nó bắt mình theo nội quy. Còn tôi… tôi là Việt Cộng rồi, tôi chống tới cùng".
Ông kể ở trong khu tử tù, ông vẫn giữ liên lạc bí mật, truyền tin từ ngoài đảo vào từng phòng giam. "Chính tin tức đó nuôi sống mình. Nuôi niềm tin mình", ông nói.
Tới ngày 30.4.1975 ông vẫn còn bị còng. Tôi hỏi ông: "Khoảnh khắc nghe tin đất nước hoàn toàn thống nhất, chú cảm thấy thế nào?". Ông cười, giọng rưng rưng: "Mừng đến run người. Người nào trong tù cũng yếu lắm, mà hôm đó đi xông xổng hết. Mở được cái còng ra… như sống lại".
Trở về - DỠ bàn thờ của chính mình
Ông cùng nhiều người tù rời Côn Đảo, trở về đất liền - trở về từ cõi chết. "Đầu tiên mình về là dọn bàn thờ của mình", ông kể.
Trong nhà, giữa phòng khách, gia đình đã lập một bàn thờ cho ông. Họ tin ông đã chết từ lâu. Ông bảo: "Bàn thờ thì dẹp, nhưng mà tui vẫn để cái hình thờ của tui làm kỷ niệm".
Vợ ông khi ấy đã có chồng khác, vì gia đình tưởng ông không còn nữa. Con gái ông cũng mất vì bệnh trong thời gian ông bị giam, khi đó ông không được thăm nuôi nên không hề hay biết.
Ông kể bằng giọng hiền hậu, không một lời oán trách: "Vợ tui lấy chồng khác, chuyện đó không ai muốn. Mình đi, không biết sống chết. Tôi nói: Em cứ sống yên ổn, anh giờ đi… Thôi để anh lập gia đình khác". Chỉ vài câu nói, nhưng đầy sự bao dung và bình thản của một người đã đi qua cái chết, và hiểu hơn ai hết giá trị của sự sống và hạnh phúc người khác.
Sau đó, ông về công tác ở Q.Bình Thạnh (TP.HCM) trước đây, và cưới vợ. Điều đặc biệt là người vợ mới cũng từng ở tù Côn Đảo. Hai con người từng bị giam cầm ở nơi khắc nghiệt nhất, từng ở trong hầm đá, chuồng cọp, từng bị cùm, từng chứng kiến đồng đội mình bị đánh đến thương tật… cuối cùng gặp nhau giữa đời thường. Họ dựng lại một cuộc sống mới - không ồn ào, không phô trương, nhưng bền chắc như chính ý chí của họ.
Tôi hỏi ông câu mà bất kỳ người trẻ nào cũng muốn nghe từ một người đã đi qua chiến tranh, tù đày và cái chết: "Chú muốn gửi gắm điều gì cho thế hệ trẻ hôm nay?". Ông nói: "Thời tụi tôi yêu nước là cầm súng. Còn bây giờ mấy cháu yêu nước bằng học tập, bằng sống tử tế, bằng tin vào Đảng, tin vào nhân dân". Ông dừng một chút rồi nói: "Thanh niên phải có niềm tin để vươn lên. Phải tin rằng mình có thể làm được, có thể vượt qua bất kỳ hoàn cảnh nào"…
Rời nhà ông, tôi không quên được bàn tay gầy guộc, không quên giọng nói trầm đều của người từng đi qua bóng tối tử tù. Và không quên ánh mắt còn lại duy nhất - nhưng sáng hơn rất nhiều đôi mắt của những người chưa từng bước qua hiểm nguy.
Bình luận (0)