Đó là ý kiến của Chủ tịch Hội Phụ sản Việt Nam Nguyễn Viết Tiến, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế, tại hội nghị quốc tế "Nâng cao tỷ lệ thành công trong hỗ trợ sinh sản" khai mạc chiều nay 7.9, tại Hà Nội.
GS Nguyễn Viết Tiến đánh giá, tình hình vô sinh hiếm muộn ở Việt Nam ngày càng gia tăng. Theo kết quả một số nghiên cứu các năm trước, tỷ lệ vô sinh hiếm muộn của Việt Nam là 7,7% nhưng tỷ lệ vô sinh, hiếm muộn hiện đã cao hơn, do các yếu tố về cách sống, xu hướng lập gia đình muộn, áp lực của cuộc sống...
GS Tiến cho rằng, gia tăng tỷ lệ vô sinh hiếm muộn của Việt Nam tác động lớn tới tỷ lệ sinh thay thế.
Muốn duy trì được mức sinh thay thế, mỗi cặp vợ chồng phải sinh ít nhất 2 con. Nhưng đến nay, một số địa phương, đặc biệt là TP.HCM, tỷ suất sinh không đạt 2. Vì vậy, nguy cơ suy giảm dân số rất hiện hữu. Ngay bây giờ, nếu chúng ta không nhìn nhận thì sau này sẽ gặp hệ lụy. Khi dân số già, nâng lên rất khó.
Tình trạng vô sinh hiếm muộn gây hệ lụy, bởi nhiều cặp vợ chồng không thể có thai, khó có con sẽ khiến số lượng dân số giảm nếu các cặp vợ chồng khao khát có con nhưng điều trị còn khó khăn.
Qua thực tế quản lý và điều trị, GS Tiến chia sẻ: "Tôi gặp rất nhiều cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn nhưng không đủ kinh phí để điều trị. Thậm chí, có những bệnh lý phải mổ, liên quan tới vô sinh hiếm muộn nhưng không được thanh toán bảo hiểm do gặp rất nhiều khó khăn, không những cho các cặp vợ chồng mà còn chính với bác sĩ khi mong muốn điều trị cho người bệnh".
BHYT hạn hẹp, nên chi trả từng bước
Theo GS Tiến, để thêm cơ hội cho các cặp vợ chồng vô sinh, một số nước đã có thể cho BHYT chi trả cho làm kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm. Ví dụ ở Pháp, quốc gia này cho phép làm 4 chu kỳ thụ tinh ống nghiệm miễn phí. Nhưng tại Việt Nam, tất cả chi phí đó đều do các cặp vợ chồng chi trả.
"Cần có chủ trương, chính sách để thanh toán bảo hiểm cho các cặp vợ chồng điều trị vô sinh hiếm muộn. Tôi đã làm việc với Bộ Y tế nhiều năm, kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, quỹ BHYT của chúng ta chỉ có mức độ, vì vậy, nên làm từng bước", GS Tiến đề xuất.
Ví dụ, các cặp vô sinh hiếm muộn có những bệnh liên quan, không cần làm thụ tinh ống nghiệm, mà là điều trị một số bất thường, nên thanh toán cho họ. Khi quỹ bảo hiểm tốt hơn, nên thanh toán cả những kỹ thuật điều trị vô sinh. Vấn đề là chúng ta quan tâm, vào cuộc ngay.
GS Tiến cho rằng: "Nếu chúng ta có chính sách để thay đổi phù hợp, các cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn sẽ được hưởng lợi, góp phần duy trì, đóng góp việc duy trì, ổn định chất lượng và số lượng dân số".
Kết hôn muộn giảm khả năng mang thai
GS Tiến cũng lưu ý, trong nước đang có xu hướng kết hôn muộn. Kết hôn muộn làm giảm khả năng có thai. Nhiều người muốn có điều kiện đầy đủ như có nhà, có xe mới sinh con, trong khi áp lực con cái học hành, để sinh con được cũng cần phải tính toán. Nên khi có điều kiện thì người phụ nữ có tuổi, ảnh hưởng tới khả năng sinh con.
"Việt Nam đang đối mặt với thách thức mức sinh ngày càng thấp, trong khi tỷ lệ vô sinh lại ở mức cao. Chúng ta cần thảo luận những giải pháp can thiệp, hỗ trợ trong thời gian tới để giúp cho cá nhân, cặp vợ chồng hiếm muộn được hưởng hạnh phúc làm cha mẹ, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống", GS Tiến chia sẻ, và cho biết: "Hiện, trình độ điều trị vô sinh hiếm muộn của Việt Nam đã tương đương với các nước trên khu vực, với hơn 50 trung tâm có thể thụ tinh ống nghiệm, có thể đáp ứng được nhu cầu của bệnh nhân vô sinh, hiếm muộn".
Hội nghị quốc tế chuyên đề "Nâng cao tỷ lệ thành công trong hỗ trợ sinh sản" do Hội Phụ sản Việt Nam và Công ty Merck tổ chức trong 2 ngày (7 - 8.9) tại Hà Nội.
Hội nghị tổ chức trực tiếp và trực tuyến, với sự tham dự của hơn 1.000 chuyên gia hàng đầu trong nước và quốc tế về hỗ trợ sinh sản, cùng thảo luận về các tiến bộ mới nhất trong điều trị vô sinh hiếm muộn.
Hỗ trợ sinh sản là lĩnh vực y khoa phức tạp, được nhiều quốc gia quan tâm với mục tiêu cải thiện khả năng sinh sản cho bệnh nhân và tăng tỷ lệ trẻ sinh sống. Công nghệ hỗ trợ sinh sản bao gồm nhiều phương pháp khác nhau, từ thụ tinh trong ống nghiệm và tiêm tinh trùng vào bào tử tương noãn đến trữ đông noãn và phôi.
Sự tiến bộ trong lĩnh vực này, cùng với chi phí điều trị lớn, không dễ dàng để bệnh nhân có thể tìm ra phương pháp phù hợp giúp họ xây dựng gia đình, sinh con như mong muốn.
Bình luận (0)