Những cuộc chiến dầu mỏ kết thúc trong thảm họa

02/02/2016 11:29 GMT+7

Từ chế độ Đức Quốc xã đến thời của Tổng thống Iraq Saddam Hussein, dầu mỏ luôn là một sự cám dỗ nguy hiểm.

Từ chế độ Đức Quốc xã đến thời của Tổng thống Iraq Saddam Hussein, dầu mỏ luôn là một sự cám dỗ nguy hiểm.

Tàu Mỹ bị bắn chìm trong trận Trân Châu Cảng - Ảnh: Washington TimesTàu Mỹ bị bắn chìm trong trận Trân Châu Cảng - Ảnh: Washington Times
Trong 100 năm qua, dầu mỏ là một lý do phổ biến để đi đến chiến tranh. Các nước đã chĩa súng vào nhau nhằm thôn tính các mỏ dầu hoặc ngăn đối thủ kiểm soát loại hàng hóa cực kỳ quan trọng đối với mọi nền kinh tế và quân đội hiện đại. Tuy nhiên, nhiều quốc gia đã nhận được bài học rằng cái giá phải trả cho việc chiếm được nguồn dầu mỏ có thể cao hơn rất nhiều so với giá trị mà nó mang lại.
Trong lịch sử nhân loại, có ít nhất 5 cuộc chiến như thế đã kết thúc trong thảm họa, theo chuyên san quân sự Mỹ The National Interest.
Cuộc chiến Thái Bình Dương
Quyết định của Nhật Bản đi đến chiến tranh với Mỹ hồi năm 1941 có nhiều lý do nhưng “chất xúc tác” tức thời chính là lệnh cấm vận dầu mỏ do Mỹ và châu Âu áp đặt vào năm 1941, xuất phát từ việc Nhật chiếm bán đảo Đông Dương từ tay người Pháp. Nhật không sản xuất dầu mỏ nhưng lại có một nền kinh tế công nghiệp cùng lực lượng hải quân hùng hậu rất cần xăng dầu.
Giới lãnh đạo Nhật khi đó mắc kẹt giữa 2 lựa chọn: thoái lui trước lệnh cấm vận và từ bỏ những tham vọng đế quốc, hoặc lợi dụng việc trùm phát xít Adolf Hitler chiếm Tây Âu để chiếm các mỏ dầu tại các thuộc địa của Hà Lan và Anh tại Đông Nam Á. Trong thế trận này, người châu Âu quá yếu không thể bảo vệ thuộc địa của mình, nhưng Mỹ sở hữu một hạm đội Thái Bình Dương hùng mạnh có thể can thiệp.
Việc phá hủy Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ ở Trân Châu Cảng đã không giải quyết được vấn đề dầu mỏ của Nhật. Chiếm các mỏ dầu châu Á được xem là chuyện dễ, nhưng vận chuyển dầu ngược về Nhật lại không như thế. Đến năm 1945, hoạt động phong tỏa bằng tàu ngầm của Mỹ, cùng việc thả thủy lôi từ trên không xuống vùng biển Nhật đã gây thiệt hại cho đội tàu dầu của Tokyo. Tấn công nước Mỹ được cho là nhằm đảm bảo nguồn dầu vô hạn cho Nhật, nhưng trái lại nó dẫn đến sự diệt vong của một đế chế.
Trận Stalingrad
Nếu có lãnh đạo nào bị ám ảnh bởi dầu mỏ, đó phải là Adolf Hitler, người vốn luôn than phiền rằng “các tướng lĩnh của tôi chẳng biết gì về những khía cạnh kinh tế của chiến tranh”. Âm mưu của người Đức nhằm đánh bại Liên Xô trong một chiến dịch chớp nhoáng đã thất bại vào mùa hè năm 1941. Đến tháng 6.1942, quân đội Đức chỉ còn đủ lực để mở một cuộc tấn công ở một khu vực nhỏ trên mặt trận rộng lớn của người Nga.
Hitler đã tập trung các sư đoàn thiện chiến nhất ở miền nam Nga nhằm chiếm các mỏ dầu có trữ lượng lớn ở vùng Caucasus. Dù chiến dịch Xanh (Operation Blue) khởi đầu thuận lợi và đã áp sát Stalingrad vào tháng 8.1942, người Đức sớm đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan: hoặc tập trung lực lượng và quay về phía nam để chiếm nguồn dầu mỏ, hoặc tiếp tục tiến về phía tây để chiếm Stalingrad và dùng nó làm thành trì chống lại lực lượng Xô Viết.
Hitler, với tính cách đặc trưng của mình, muốn có cả hai thứ. Quân đội Đức được chia làm đôi, một mũi hướng đến Caucasus và mũi còn lại tiến đến Stalingrad. Cả 2 mũi đều tiến gần đến thành công, nhưng cả hai đều không có đủ quân hoặc nguồn tiếp tế để hoàn thành sứ mệnh của mình. Lực lượng Quốc xã đã không thể chiếm được các trung tâm dầu mỏ Grozny và Baku, dù họ có thể cắm cờ trên Elbrus, ngọn núi cao nhất Caucasus.
Trong khi đó, từ phía bắc, người Xô Viết âm thầm tập trung lực lượng cho một cuộc phản công tại Stalingrad. Chỉ trong 6 tháng, lực lượng Đức tham gia cuộc viễn chinh tại Caucasus rút lui hoàn toàn, trong khi hơn 100.000 lính Đức đầu hàng ở Stalingrad, đánh dấu một bước ngoặt trong Thế chiến 2. Giấc mơ dầu mỏ của Hitler đã chấm dứt cùng với ý định đối phó Liên Xô.
Chiến tranh tàu dầu Iran - Iraq
Cuộc chiến tranh Iran - Iraq kéo dài 8 năm và đã gây áp lực lớn cho cả hai bên. Trong tình trạng bế tắc trên chiến trường, 2 nước tìm cách tấn công đối phương thông qua dầu mỏ, nguồn tài nguyên chiến lược đối với cả Baghdad lẫn Tehran.
Iraq bắt đầu cuộc Chiến tranh tàu dầu vào năm 1984 bằng cách tấn công các cơ sở dầu mỏ của Iran và các tàu chở dầu giao dịch với nước Cộng hòa Hồi giáo Iran. Iran đáp trả bằng các cuộc tấn công bằng không quân và hải quân nhằm vào các tàu Iraq cùng các cơ sở dầu mỏ, đáng chú ý hơn cả là cài thủy lôi ở vịnh Ba Tư.
Bất chấp các cuộc tấn công nhằm vào 450 tàu, không bên nào có thể hạ gục đối phương và buộc họ đầu hàng. Nhưng cuộc Chiến tranh tàu dầu đã đem lại hậu quả không nhỏ: nó kéo người Mỹ lao vào cuộc xung đột trực tiếp với Iran sau khi các tàu chiến Mỹ bắt đầu hoạt động hộ tống các tàu chở hàng qua lại vịnh Ba Tư. Sau khi thủy lôi và tên lửa Iran phá hủy các tàu chở hàng dân sự và tàu khu trục Mỹ USS Samuel B.Roberts, các tàu chiến, máy bay và biệt kích Mỹ đã được triển khai phá hủy hàng loạt tàu và cơ sở hải quân trong chiến dịch Praying Mantis.
Cuộc phiêu lưu của Saddam Hussein
Năm 1991, Iraq xâm chiếm nước láng giềng Kuwait do những tranh cãi liên quan đến các khoản nợ chiến tranh của Iraq, việc sản xuất dầu quá mức của Kuwait, những tuyên bố của Baghdad rằng Kuwait là một phần của Iraq và có thể là ý định chiếm nguồn tài nguyên dầu mỏ dồi dào của Kuwait
Quân đội Iraq đã không gặp mấy khó khăn khi thôn tính Kuwait, nhưng hành động này đã đặt họ vào thế đối đầu với Mỹ, vốn trên thực tế đã ủng hộ Iraq trong cuộc chiến 8 năm với Iran. Bất chấp tối hậu thư của Liên Hiệp Quốc buộc Iraq rút quân khỏi Kuwait, chính quyền của Tổng thống Iraq Saddam Hussein từ chối tuân thủ.
Kết quả là sức mạnh quân sự của Iraq đã bị triệt tiêu trong chiến dịch Bão táp Sa mạc do Mỹ dẫn đầu. Từng là một trong những thế lực quan trọng trong thế giới Ả Rập, cuộc phiêu lưu dầu mỏ của ông Hussein đã khiến quốc gia của ông lâm vào khủng hoảng và bị cô lập.
Các cuộc chiến của Mỹ ở Iraq
Liệu các cuộc chiến tranh của Mỹ ở Iraq vào các năm 1991 và 2003 có xuất phát từ động cơ dầu mỏ hay không vẫn là đề tài bàn luận của các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, đối với nhiều người, dầu mỏ chính là một lý do quan trọng nhất để Mỹ triển khai hàng trăm ngàn quân đến vùng Vịnh.
Theo chuyên gia phân tích chính trị Mỹ Michael Peck trên National Interest, chính sự hiện diện của Mỹ tại Ả Rập Xê Út đã tạo điều kiện cho Osama Bin Laden và al-Qaeda trỗi dậy, dẫn tới các vụ tấn công khủng bố nhằm vào nước Mỹ ngày 11.9.2001.
Chi phí của cuộc chiến do Mỹ dẫn đầu ở Iraq hồi năm 2003 sẽ đè nặng trên vai người đóng thuế Mỹ trong nhiều thập niên. Với các lãnh đạo Mỹ, cái giá của dầu mỏ thực sự cao hơn những gì có thể hình dung.
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.