Qua 12 năm sau thảm họa hạt nhân Fukushima, Nhật Bản sắp xả thải nước nhiễm phóng xạ đã qua xử lý ra biển nhằm giảm áp lực cho hơn 1.000 bể lưu chứa, tạo ra không gian cần thiết cho các công việc khắc phục khác.
Tính đến tháng 2, hơn 1,32 triệu tấn nước ô nhiễm đã qua xử lý được chứa ở nhà máy điện hạt nhân Fukushima, chiếm 96% năng lực lưu trữ. Vì vậy, Công ty Điện lực Tokyo (TEPCO) - đơn vị vận hành nhà máy điện hạt nhân Fukushima, đang rất nóng lòng tới lúc bắt đầu xả thải. Theo kế hoạch được Chính phủ Nhật Bản phê duyệt, quá trình xả thải sẽ bắt đầu trong mùa xuân hoặc mùa hè năm nay.
TEPCO cho biết lượng nước thải này đã được xử lý, loại bỏ những thành phần phóng xạ mạnh nhất, do đó, việc xả thải ra biển vừa an toàn, vừa cần thiết. Chính phủ Nhật Bản và Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) cũng như các nhà khoa học độc lập cũng đã tuyên bố việc xả thải này là hợp lý và an toàn.
Tuy nhiên, kế hoạch vẫn vấp phải sự phản đối của người dân địa phương và một số nước láng giềng. Tổ chức Hòa bình Xanh lo ngại chất phóng xạ được giải phóng có thể làm thay đổi ADN của con người. Các nước Trung Quốc, Hàn Quốc đã lên tiếng bày tỏ quan ngại, trong khi các quốc đảo Thái Bình Dương lo ngại việc này có thể khiến nước biển có nguy cơ ô nhiễm phóng xạ hơn nữa.
Nước thải từ nhà máy hạt nhân Fukushima sắp xả ra biển, ngư dân Nhật Bản âu lo
Có gì trong nước thải phóng xạ ở Fukushima?
Trong bài viết trên trang The Coversation, phó giáo sư về vật lý Nigel Marks của Đại học Curtin, giáo sư về hóa học Brendan Kennedy của Đại học Sydney và phó giáo sư Tony Irwin của Đại học Quốc gia Úc cho biết dựa trên kinh nghiệm chuyên môn về khoa học hạt nhân và năng lượng, việc xả nước thải phóng xạ đã qua xử lý nói trên của Nhật Bản là hợp lý và an toàn. Đánh giá của họ dựa trên loại phóng xạ sẽ được giải phóng, lượng phóng xạ đã có trong đại dương và mức độ giám sát độc lập cao của IAEA.
Các bể lưu trữ tại Fukushima chứa khoảng 1,32 triệu tấn nước thải phóng xạ, tương đương với sức chứa của khoảng 500 bể bơi tiêu chuẩn Olympic và đang được làm sạch bằng Hệ thống xử lý chất lỏng tiên tiến (công nghệ ALPS) nhằm giúp loại bỏ phần lớn các nguyên tố có hại. Việc xử lý nước thải phóng xạ bằng công nghệ ALPS được lặp đi lặp lại nhiều lần cho đến khi nồng độ dưới mức giới hạn quy định. Ông Kenichi Takahara, người phát ngôn của TEPCO cho biết: "Phần này của hệ thống lọc caesium, trong khi phần kia loại bỏ strontium và những phần khác thì loại bỏ các hạt nhân phóng xạ khác. Cuối cùng, nước đã được lọc qua cả hệ thống gần như không còn đồng vị phóng xạ, trừ tritium".
Theo TEPCO, các hệ thống lọc đã loại bỏ hầu hết 62 chất phóng xạ trong lượng nước mà nhà máy điện hạt nhân Fukushima chuẩn bị xả ra biển. Giám sát độc lập của IAEA sẽ đảm bảo toàn bộ nước thải phóng xạ đã qua xử lý đáp ứng tất cả các yêu cầu trước khi được phép xả thải.
Vấn đề mà dư luận quan tâm hiện nay là chất gây ô nhiễm phóng xạ chính còn lại sau khi xử lý là tritium - một đồng vị phóng xạ của hydro, rất khó loại bỏ ra khỏi nước. Hiện vẫn không có công nghệ nào có thể loại bỏ lượng tritium còn sót lại từ lượng nước lớn như vậy. Theo nguyên lý, tritium có chu kỳ bán rã 12,3 năm. Việc lưu trữ một lượng nước lớn trong một thời gian dài sẽ làm tăng nguy cơ rò rỉ mất kiểm soát.
Liệu việc xả thải có an toàn?
Giống như tất cả các nguyên tố phóng xạ khác, tritium cũng có các tiêu chuẩn quốc tế về mức độ an toàn. Theo các chuyên gia, tritium chỉ có hại cho con người nếu hấp thụ lượng lớn, trong khi TEPCO dự định làm loãng chất này trong nước thải xuống mức thấp hơn rất nhiều so với tiêu chuẩn quốc gia của Nhật Bản. Tại thời điểm xả thải, Nhật Bản đã chọn giới hạn nồng độ là 1.500 becquerel/lít (becquerel viết tắt là Bq, là đơn vị đo cường độ phóng xạ), nhỏ hơn 7 lần so với giới hạn khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới là 10.000 Bq/lít đối với nước uống.
IAEA cũng khẳng định kế hoạch xả thải này đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế và "sẽ không gây hại cho môi trường".
Hầu hết mọi thứ đều có tính phóng xạ ở một mức nào đó bao gồm cả không khí, nước, thực vật, tầng hầm, bàn đá, ghế đá granite... Thậm chí, ngay cả một chuyến bay đường dài của các hãng hàng không cũng xả ra một lượng bức xạ nhất định.
Đối với tritium, các quá trình tự nhiên trong khí quyển tạo ra từ 50 - 70 peta-becquerel (PBq) (140 - 195 g) tritium mỗi năm. 1 PBq bằng 1 triệu tỉ Bq và tương đương 2,79 g, theo công thức hoán đổi của các nhà nghiên cứu. Hiện nay ở Thái Bình Dương, có khoảng 8,4 kg tritium trong nước. Trong khi đó, tổng lượng tritium trong nước thải của nhà máy Fukushima nhỏ hơn rất nhiều, vào khoảng 3 g. Hơn nữa, chính quyền Nhật Bản không có kế hoạch xả nước thải phóng xạ đã qua xử lý cùng một lúc, thay vào đó, chỉ khoảng 0,06 g được giải phóng mỗi năm. Điều đó đồng nghĩa lượng phóng xạ có trong nước thải đã qua xử lý mà Nhật Bản dự kiến xả ra Thái Bình Dương theo kế hoạch chỉ là "một giọt nước trong đại dương" theo đúng nghĩa đen.
Phó giáo sư về vật lý Nigel Marks cho rằng mức độ phóng xạ tritium hiện tại ở Thái Bình Dương không đáng lo ngại. Do đó, một lượng nhỏ tritium từ nhà máy Fukushima của Nhật Bản bổ sung vào sẽ không gây ra bất kỳ tác hại nào. Hơn nữa, lượng phóng xạ trong đại dương phần lớn lại là kali - nguyên tố cần thiết cho sự sống và hiện diện trong tất cả các tế bào. Ở Thái Bình Dương có 7,4 triệu PBq phóng xạ từ kali.
Mức xả thải tritium của các nước
Tất cả các nhà máy điện hạt nhân đều sản xuất ra một ít tritium và chất này thường xuyên được xả thải ra đại dương và các tuyến đường thủy khác. Lượng tritium tạo ra phụ thuộc vào từng loại lò phản ứng.
Đối với lò phản ứng nước sôi như ở Fukushima, lượng tritium sinh ra tương đối thấp. Khi nhà máy này đang hoạt động, giới hạn thải tritium được đặt ở mức 22 TBq (tera-becquerel)/năm, thấp hơn nhiều so với mức có thể gây hại. 1 TBq bằng 0,001 PBq. Trong khi đó, nhà máy điện hạt nhân Heysham của Vương quốc Anh có giới hạn 1.300 TBq/năm vì loại lò phản ứng làm mát bằng khí này tạo ra rất nhiều tritium. Trong 40 năm, nhà máy Heysham đã thải tritium mà không gây hại cho con người và môi trường.
Nhà máy điện hạt nhân Phúc Thanh ở tỉnh Phúc Kiến của Trung Quốc đã thải ra 52 TBq tritium vào năm 2020, trong khi nhà máy điện hạt nhân Kori ở Hàn Quốc đã thải ra 50 TBq vào năm 2018.
Như vậy có thể thấy, mức thải tritium hàng năm ở các nhà máy điện hạt nhân khác vượt xa mức xả thải dự kiến của nhà máy Fukushima của Nhật Bản. Tuy nhiên, lo ngại của các quốc đảo Thái Bình Dương và một số nước không phải là không có lý do.
Gần đây, tạp chí Time có bài phân tích cho thấy, các quốc đảo Thái Bình Dương đã phải vật lộn trong nhiều thập niên với di sản từ các vụ thử hạt nhân thời Chiến tranh Lạnh. Trong khi đó, nhiều nhà hoạt động môi trường ở Thái Bình Dương cũng bày tỏ quan ngại về kế hoạch xả thải này. Ngư dân địa phương lo ngại việc xả thải của Nhật Bản sẽ lại khiến người tiêu dùng e dè, không mua hải sản của họ.
Trong một diễn biến khác, Diễn đàn Quần đảo Thái Bình Dương (PIF) đã thành lập một hội đồng các chuyên gia nhằm tư vấn và hướng dẫn kỹ thuật độc lập để giải quyết các mối lo ngại về nước thải. Họ khuyến cáo Nhật Bản hoãn việc xả thải sắp tới cho dù các số liệu khoa học cho thấy việc xả thải này an toàn và sẽ tạo điều kiện để Tokyo có thể tiếp tục tiến hành quá trình phục hồi sau thảm họa Fukushima.
Bình luận (0)