|
- Sau thời gian ồ ạt với phong trào phát triển toàn diện các ngành công nghiệp một lúc, đến nay chúng ta nên dũng cảm chấp nhận rằng mình đã chưa thành công trong các hoạt động cụ thể đáp ứng mục tiêu công nghiệp hóa. Công nghiệp phụ trợ yếu kém, công nghiệp điện tử dừng lại ở mức gia công, công nghiệp ô tô chỉ lắp ráp là chính, công nghiệp đóng tàu biển cũng chưa thấy gì. Những “miếng ngon” chúng ta nói đến trong loạt bài như logistics, khách sạn, quảng cáo rất khó để nói đến việc giành lại thị phần. Lý do họ đã làm chuyên nghiệp và có quá nhiều kinh nghiệm hơn ta trong thời gian dài. Có chăng, nông nghiệp sẽ là chiếc phao cứu sinh cho nền kinh tế lúc này, mà thức ăn chăn nuôi chỉ là một mảng nhỏ trong đó. Nhưng “miếng ngon” này cần có chính sách vĩ mô với tầm nhìn dài hạn hơn.
* Tầm nhìn tầm vĩ mô dài hạn trong lĩnh vực nông nghiệp cụ thể là thế nào, thưa ông?
- Tôi nhấn mạnh, nông nghiệp không là “miếng ngon” mà chỉ là chiếc phao cứu sinh khá tốt cho nền kinh tế của chúng ta lúc này. Chính sách vĩ mô của chúng ta nói nhiều nhưng chưa có sự chuẩn bị mang tầm chiến lược quốc gia. Ở cấp quốc gia, nên có chiến lược phát triển sản phẩm nông sản có giá trị gia tăng cao hơn chứ không chỉ dừng ở mức xuất thô nhập tinh như hiện nay. Thực tế, chiến lược người Việt dùng hàng Việt sẽ thành công hơn nếu nhà nước hỗ trợ DN nội những việc thiết thực hơn là phong trào. Chẳng hạn, đầu tư nghiên cứu giống lúa tốt để tránh phụ thuộc nhập giống lúa kém chất lượng từ Trung Quốc, đầu tư nghiên cứu sản xuất cà phê chất lượng cao, hỗ trợ mạnh khâu chế biến sản phẩm nông sản để có những sản phẩm có giá trị cao. DN nào cũng muốn cạnh tranh ở phân khúc cao, nhưng những công đoạn tạo ra giá trị cao lại không được sự hậu thuẫn từ nhà nước, rất khó để DN tự bơi.
* Vậy để giảm chênh lệch trong cạnh tranh với DN ngoại, lấy được thị phần trong khả năng, DN Việt cần chuẩn bị những gì, thưa ông?
- Từng làm việc, tư vấn tại một số tập đoàn đa quốc gia và DN lớn trong nước, tôi thấy, lỗ hổng lớn nhất của DN nội trong chiến lược nhân sự là thiếu một bộ tiêu chuẩn năng lực. Các tập đoàn đa quốc gia đều xây dựng bộ tiêu chuẩn này rất chi tiết nhưng hầu hết DN nội tầm lớn không hề có hoặc không nghĩ đến bộ tiêu chuẩn này một cách nghiêm túc. Thế nên mới có những quyết sách nặng phần cảm tính. Thứ nữa, như tôi nói ở trên, đừng nghĩ “miếng ngon” nào mình cũng có khả năng mà hãy biết chọn lọc, thậm chí chọn cách đi bằng ngách một cách thông minh hơn bằng những cam kết chặt chẽ và chính sách chuyển giao rõ ràng hơn. Tại các nước lân cận như Thái Lan, Malaysia, Singapore, nhiều vị trí quản lý trong các khách sạn hạng sang đều được chuyển giao cho người bản địa sau thời gian 2 - 3 năm đầu tư.
* Trước làn sóng DN nội mất dần những “miếng ngon” trên thương trường, ông có cảnh báo gì?
- Chúng ta đang chuẩn bị tinh thần kết thúc giai đoạn lợi thế nhân công giá rẻ. Qua giai đoạn này mà không nắm được công nghệ, không có sáng tạo cải tiến, bị rơi vào bẫy thu nhập trung bình là vậy. Chính sách quản lý lỏng lẻo đã không “áp” được nhà đầu tư ngoại thực hiện các nghĩa vụ mà họ phải thực hiện khi đầu tư vào. Phía DN nội cũng không có cơ chế khuyến khích, thúc đẩy phát triển sáng tạo nên cứ mạnh ai nấy làm, manh mún và thiếu hẳn sự liên kết tạo nên sức mạnh.
Mở cửa cho nước ngoài vào, nhưng phải xác định rõ sau 5 - 10 năm, mình sẽ kết thúc vai trò làm thuê, làm gia công, tiến đến làm chủ như thế nào. Phải có kế hoạch cụ thể, nhà nước và DN cùng bắt tay làm và làm quyết liệt. Nhật, Hàn, Đài Loan đã rất thành công với chiến lược này và Trung Quốc đang có chính sách đó, nhưng ở VN, tôi thấy phản ứng còn rất chậm.
Ông Phan Thế Ruệ, Chủ tịch Hiệp hội Các nhà bán lẻ VN, nguyên Thứ trưởng Bộ Thương mại: Doanh nghiệp nội thiếu sự liên kết Dịch vụ là thế mạnh của các DN ngoại, nên DN nội khó cạnh tranh cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, có 4 vấn đề tôi nghĩ cần nói cho rõ. Thứ nhất là DN nội làm trong những lĩnh vực này chưa chịu khó đầu tư trong tâm thế hội nhập mà còn mang tâm lý trông chờ vào nhà nước. Hội nhập là phải nỗ lực vươn lên nhưng phía DN chúng ta chưa làm được điều này. Thứ hai là những dịch vụ cần công nghệ cao, DN ta lại đầu tư công nghệ kém hơn, làm sao cạnh tranh nổi, lấy ví dụ như ngành logistics. Hoặc chưa chú trọng phát triển vùng nguyên liệu như với ngành thức ăn chăn nuôi dẫn đến nhập nguyên liệu quá nhiều tất khó cạnh tranh nổi. Thứ ba là cộng đồng DN nội thiếu sự tổ chức, liên kết. Không có một anh cả trong ngành được Chính phủ hỗ trợ để làm đầu tàu liên kết các DN với nhau tạo sức mạnh như tạo môi trường pháp lý hỗ trợ về khoa học công nghệ, dự báo thị trường... để giúp DN nội mạnh hơn. Và cuối cùng là các chính sách về tài chính đối với DN nội cũng chưa được linh hoạt công bằng so với DN ngoại. |
Nguyên Nga
Bình luận (0)