Theo Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức (Hà Nội), bình thường các động mạch có nhiệm vụ đưa máu giàu ô xy từ tim đến não, trong khi các tĩnh mạch có vai trò ngược lại, đưa máu bị thiếu ô xy trở lại phổi và tim.
Dị dạng thông động tĩnh mạch não (arteriovenous malformation - AVM) là một đám rối của các mạch máu bất thường nối động mạch và tĩnh mạch trong não, không qua mạng lưới mao mạch, do đó làm rối loạn quá trình "vận chuyển" máu.
AVM có thể phát triển ở bất cứ đâu trong cơ thể nhưng thường xảy ra nhất ở não hoặc tuỷ sống. Tuy nhiên, các AVM ở não rất hiếm và ảnh hưởng ít hơn 1% dân số.
Nguyên nhân của AVM còn chưa được tìm hiểu rõ ràng. Hầu hết mọi người được sinh ra với chúng, nhưng chúng đôi khi có thể hình thành sau này trong cuộc sống của mỗi người.
AVM có thể không gây ra bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng nào cho đến khi bị vỡ, dẫn đến chảy máu trong não.
Chỉ có từ 1 - 3% AVM não bị vỡ nhưng xuất huyết là dấu hiệu đầu tiên ở 50% bệnh nhân bị AVM. Nhiều bệnh nhân được chẩn đoán do kiểm tra sức khoẻ hoặc do các vấn đề khác không liên quan đến khối dị dạng, như chấn thương sọ não.
Một số triệu chứng khác của AVM có thể xuất hiện là: co giật, đau đầu, yếu liệt, nói khó, nhìn mờ, lú lẫn. Các triệu chứng có thể bắt đầu ở mọi lứa tuổi nhưng thường xuất hiện trong độ tuổi từ 10 - 40.
AVM có thể gây ra hiện tượng “trộm máu não” ngăn cản việc cung cấp dưỡng chất cho các tế bào não, từ đó hình thành các cơn nhồi máu não |
bệnh viện hữu nghị việt đức |
Các AVM não có thể làm tổn thương mô não theo thời gian. Các tác động tích tụ từ từ và thường gây ra các triệu chứng ở tuổi trưởng thành sớm. Tuy nhiên, khi bạn đến tuổi trung niên, các AVM của não có xu hướng duy trì ổn định và ít gây ra các triệu chứng hơn.
AVM có thể gây ra hiện tượng “trộm máu não” do dòng máu bị hướng đến "nuôi" khối dị dạng thay vì việc cung cấp dưỡng chất cho các tế bào não, từ đó hình thành các cơn nhồi máu não.
Để chẩn đoán AVM, bác sĩ sẽ dựa trên các triệu chứng và thăm khám lâm sàng thần kinh. Các công cụ chẩn đoán hình ảnh ngày nay rất phổ biến ở Việt Nam, việc chụp mạch máu não, chụp cộng hưởng từ mạch não, chụp cắt lớp vi tính đều có thể chẩn đoán được.
Theo các bác sĩ, điều trị AVM tùy thuộc vào vị trí, kích thước và cấu trúc mạch máu của khối dị dạng, ngoài ra còn phải đánh giá lâm sàng của bệnh nhân, tình trạng của khối AVM (vỡ hay chưa vỡ).
Có nhiều phương pháp điều trị từ phẫu thuật, nút mạch, xạ trị, dùng thuốc chữa triệu chứng hoặc đơn giản chỉ là theo dõi.
Các chuyên gia khuyến cáo người dân hãy đi khám hoặc đến cơ sở y tế gần nhất ngay khi thấy mình hoặc người thân có các triệu chứng như đã kể trên. AVM là một bệnh hoàn toàn có thể chữa được. Nhiều bệnh nhân sau phẫu thuật có thể trở về cuộc sống bình thường, nhưng nếu đến viện ở giai đoạn muộn có thể sẽ để lại những di chứng hết sức nặng nề.
Bình luận (0)