Quá nhiều sai sót trong cuốn Tuyển dịch văn bia chùa Huế

04/10/2005 22:14 GMT+7

Những áng văn khắc trên bia, kể cả bia dựng ở chùa, nằm trong kho tàng văn hóa dân tộc. Vì vậy, từ lâu đã có những tuyển tập văn bia Hà Nội và TP.HCM được xuất bản. Gần đây, Tuyển dịch văn bia chùa Huế (*) được bạn đọc đón nhận và một số tờ báo giới thiệu trân trọng. Rất tiếc có nhiều chỗ sai không thể chấp nhận được trong một chuyên đề khoa học, văn hóa như thế.

Tuyển dịch văn bia chùa Huế gồm 45 bài khắc dựng tại 22 ngôi chùa cổ với nhiều nội dung liên quan đến lịch sử, văn hóa cố đô Huế và vùng phụ cận, do nhà nghiên cứu Lê Nguyễn Lưu  (nổi tiếng với công trình dịch 1.000 bài thơ Đường trước đây) sưu tầm, dịch giải và chú thích. Dưới đây tóm lược vài nhầm lẫn trong cuốn sách này do nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn nêu ra qua cuộc trao đổi với Thanh Niên.

Về thuật ngữ, lời dẫn bài thơ Tịch cốc tăng của vua Thiệu Trị khắc trên tấm bia duy nhất dựng ở chùa Diệu Đế có câu: "Bật Sô Hứa thị pháp danh Liễu Tính", ông L.N.L dịch nghĩa: "Sư họ Hứa tên Bật Sô, pháp danh Liễu Tính" (tr.19) là không đúng. Vì Bật Sô (còn đọc: Bí Sô) là danh từ chung, chỉ thầy tỳ kheo, không phải là tên riêng nên không thể dịch vị sư đó "tên Bật Sô" được. Mà phải dịch: "thầy tỳ kheo họ Hứa, pháp danh Liễu Tính". Ngược lại, có danh từ riêng như hai anh em ngài Vô Trước và Thế Thân dịch giả lại nhầm lẫn là danh từ chung nên đã dịch không trọn nghĩa.

Về điển tích, bia chùa Từ Hiếu có câu: "Thập khoảnh bố kim, thiện tín dã vị cảm nghi chi Cấp Cô Độc...". L.N.L dịch: "Mười khoảng trải vàng, kẻ đàn na chưa dám nghĩ là Cấp Cô Độc..." (tr.83) và chú thích: "Phật trải vàng kín đất để đổi lấy Kỳ viên của Cấp Cô Độc làm nơi thuyết pháp" (tr.92). Như thế rất sai vì Phật không giữ tiền bạc, huống hồ có vàng để đem "trải kín đất", mà đó là vàng của vị trưởng giả tên Tu Đạt Đa, được người đương thời gọi là Cấp Cô Độc hàm nghĩa rằng ông có lòng nhân, thường giúp đỡ chu cấp cho những ai cô độc, thiếu đói. Khi Cấp Cô Độc ngỏ lời mua khu vườn của thái tử Kỳ Đà có trồng sẵn cây cao lớn mát mẻ để cúng dường Phật, thái tử bảo: "Nếu ông có đủ vàng để lót đầy mặt đất của khu vườn thì tôi mới bán". Tưởng thách chơi, ai dè Cấp Cô Độc sai gia nhân đem vàng lót đầy sân vườn ấy thật. Thái tử vui vẻ:  "Thôi, ông đã phát tâm mua đất thì đất là của ông. Nhưng còn các cây cổ thụ trong vườn vẫn là của tôi, tôi cũng xin cúng dường Phật". Nhân đó, tên vườn được gọi bằng tên của hai người là: "Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên" nghĩa là cây của thái tử Kỳ Đà (Kỳ thọ), vườn của Cấp Cô Độc (Cấp Cô Độc viên), gọi tắt là Kỳ viên.

Chỗ giải thích không đúng này không chỉ ở phần văn bia chùa Từ Hiếu trên mà còn lặp lại ở các chỗ khác như văn bia chùa Tường Vân: "Tu Đạt Đa bố kim mãn địa phúc đẳng hà sa",  L.N.L dịch: "Tu Đạt Đa trải vàng khắp đất phước dẫy như sông" và chú thích rất tai hại là: "Tu Đạt Đa hay Tất Đạt Đa tức Đức Phật Thích ca (...) đây là Phật trả vàng để mua Kỳ viên của trưởng giả Cấp Cô Độc để làm nơi thuyết pháp" (tr.105-111). Có ba chỗ nhầm lẫn:

- Thứ nhất, việc "Phật trả vàng để mua Kỳ viên" là không thể có (như đã nói trên).

- Thứ hai, thật ra Tu Đạt Đa tức là trưởng giả Cấp Cô Độc (đã mua vườn của thái tử Kỳ Đà). Còn Tất Đạt Đa là thái tử con vua Tịnh Phạn (sau thành Phật, hiệu là Thích ca Mâu ni). Như vậy, Tu Đạt Đa và Tất Đạt Đa là hai người khác nhau chứ không phải một người.

- Thứ ba, nhầm lẫn một người là hai: Khi chú thích: "Tu Đạt Đa" (hay Tất Đạt Đa)... mua Kỳ viên của trưởng giả Cấp Cô Độc" thì L.N.L đã không biết rằng Tu Đạt Đa (là tên của trưởng giả) và Cấp Cô Độc (là biệt danh của trưởng giả) là một người. Nên không thể có chuyện "ông" lấy "vàng của ông" để đi mua "vườn của ông" được!

Về điển tích "chích lý quy Tây" chỉ ngài Bồ đề Đạt Ma quẩy một chiếc dép về Tây, song ông L.N.L lại viết sai sang ngài... Mã Tổ. Hoặc vườn Lộc Dã (hay Lộc Dã uyển) tức vườn Nai, nơi Phật Thích ca thuyết pháp lần đầu tiên sau ngày thành đạo, lại bị giải thích là nơi ở và dạy học của Chu Hy đời Tống! Hoặc chú: "Kê viên cũng như Kỳ viên", thật ra Kỳ viên có trước (như nói trên) còn Kê viên tự có sau (do vua A Dục xây), hai tên gọi và hai địa điểm khác nhau chứ không phải "cũng như" nhau được. Hoặc "bất tự Bạch y" giải thích là tên một vị Phật nhưng kỳ thực chữ ở đây dùng chỉ giới cư sĩ tại gia mặc áo trắng. Hoặc giải thích: "Từ Ninh là tên một cung trong cấm thành Huế" thì theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn, từ triều Gia Long đến triều Bảo Đại trong hoàng thành Huế chẳng có cung điện nào được đặt tên là Từ Ninh để dành cho các bà hoàng thái hậu cư trú cả...

(*) Tạp chí Nghiên cứu và phát triển thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên - Huế ấn hành.

Giao Hưởng

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.