Sinh viên dùng AI ‘che dấu’ AI: Cách giảng viên buộc người học phải tư duy thật

Yến Thi
Yến Thi
20/12/2025 06:06 GMT+7

Trí tuệ nhân tạo (AI) trở thành 'trợ thủ' đắc lực của sinh viên. Cùng với lợi ích, việc lạm dụng AI để làm hộ bài tập, bài thi đặt ra thách thức lớn cho giảng viên trong đánh giá năng lực sinh viên. Trước thực tế đó, nhiều giảng viên đã thay đổi cách ra đề và đánh giá, nhằm buộc người học phải tư duy thật, làm thật, thay vì chỉ sao chép từ AI.

Nhận diện bài làm "đậm chất AI"

Chuyện phát hiện và ngăn chặn việc lạm dụng AI vẫn khiến không ít giảng viên đau đầu. Theo tiến sĩ Lê Duy Tân, giảng viên khoa Công nghệ thông tin, Trường ĐH Quốc tế (ĐH Quốc gia TP.HCM), một bài viết có dấu hiệu do AI tạo ra thường có một số đặc điểm dễ nhận thấy. Trước hết, văn bản quá "sạch": không lỗi chính tả, câu cú đều đặn, thiếu cá tính viết riêng, trong khi bài làm của sinh viên thường có sai sót nhỏ hoặc cách diễn đạt mang dấu ấn cá nhân. Thứ hai, bài viết thường thiếu "chất trải nghiệm", dẫn chứng thực tế cụ thể từ chính người viết, thay vào đó là những lập luận chung chung, hoàn thiện nhưng khá vô cảm. Thứ ba, cấu trúc câu và từ ngữ lặp lại, ít biến đổi, nhịp văn đều đều, đặc trưng của văn bản do AI tạo ra.

Tuy nhiên, sinh viên ngày nay cũng ngày càng "cao tay" hơn trong việc che giấu dấu vết sử dụng AI. Nhiều bạn dùng các công cụ "AI humanisers" để chỉnh sửa lại văn bản do AI viết, cố tình thay đổi cấu trúc câu, chèn lỗi nhỏ, điều chỉnh nhịp điệu để đánh lừa phần mềm phát hiện. Thậm chí, có trường hợp sinh viên soạn prompt (câu lệnh) rất kỹ, sau đó paraphrase hoặc dịch ngược qua nhiều ngôn ngữ nhằm làm giảm dấu hiệu "máy viết". Một số nghiên cứu cho thấy cách làm này có thể khiến các công cụ detector "ăn trượt" đáng kể.

Theo ông Phạm Tấn Anh Vũ, Trưởng đại diện khu vực phía nam, Công ty Giải pháp Trí thông minh nhân tạo Việt Nam (VAIS), sự phát triển mạnh mẽ của AI vô tình trở thành "chất xúc tác" buộc giáo dục phải cải cách phương pháp đánh giá. Khi các công cụ AI có thể viết bài luận, giải bài tập hay lập trình khá trơn tru, việc tiếp tục giao những đề bài mang tính tóm tắt, tái hiện kiến thức hoặc sao chép thông tin trở nên kém hiệu quả.

Ông Vũ cho rằng, có 5 yếu tố quan trọng sinh viên cần tuân thủ khi sử dụng AI: minh bạch về tỷ lệ sử dụng AI trong bài làm; chịu trách nhiệm về tính chính xác của nội dung; ghi nguồn đầy đủ; giới hạn vai trò của AI (chỉ hỗ trợ, không thay thế tư duy); và đảm bảo bảo mật, không cung cấp thông tin nhạy cảm cho các công cụ AI. 

Khi những nguyên tắc này được đưa vào yêu cầu bài tập, đề thi, giảng viên không chỉ kiểm soát tốt hơn việc dùng AI mà còn góp phần hình thành đạo đức học thuật cho người học.

Sinh viên dùng AI ‘che dấu’ AI: Giảng viên thiết kế đề thi ra sao? - Ảnh 1.

Giảng viên rất khó để đánh giá đúng năng lực thực sự của sinh viên khi người học sử dụng AI làm bài tập, kiểm tra, nghiên cứu...

ẢNH: T.N TẠO BẰNG AI

Đổi cách ra đề và đánh giá năng lực sinh viên

Theo ông Vũ, tình trạng sinh viên có nhiều thủ thuật để che dấu vết của AI khiến nhiều giảng viên quay lại với những hình thức kiểm tra đòi hỏi tư duy có trọng tâm mà AI khó sao chép hoàn toàn. Đó có thể là các bài kiểm tra ghi nhớ nhanh ngay tại lớp, yêu cầu sinh viên vận dụng kiến thức trong thời gian ngắn; các bài vấn đáp trực tiếp; hoặc những dự án buộc người học phải quan sát thực tế, tiến hành thực nghiệm, thu thập dữ liệu tại chỗ.

Từ thực tế giảng dạy, tiến sĩ Duy Tân cho biết hiện giảng viên thường phải kết hợp nhiều biện pháp trong quá trình đánh giá năng lực sinh viên. Giảng viên thường đối chiếu bài viết với phong cách trước của sinh viên, kết hợp với hỏi vấn đáp trực tiếp để kiểm tra xem sinh viên có thực sự hiểu ý tưởng, dẫn chứng và cách diễn giải hay không, bởi dùng công cụ AI là xu thế, nhưng hiểu và phản biện mới là mục tiêu chính của học tập.

Nhiều giảng viên cũng chủ động thiết kế lại bài tập để AI không thể làm thay hoàn toàn. Thay vì yêu cầu tóm tắt hay viết bài lý thuyết thuần túy, đề bài được xây dựng theo hướng buộc sinh viên liên hệ bản thân, lựa chọn ví dụ cá nhân, đối chiếu với dữ liệu thực tế và trình bày quá trình kiểm chứng, khiến AI không thể viết hộ được hoàn toàn.

Cách tiếp cận này cũng phù hợp với chuẩn mực học thuật quốc tế. Ủy ban Đạo đức xuất bản (COPE) khẳng định các công cụ AI không thể được liệt kê là tác giả, bởi chúng không chịu trách nhiệm pháp lý hay bản quyền. Nếu sử dụng AI, tác giả phải minh bạch về công cụ, mục đích sử dụng và vẫn chịu trách nhiệm cuối cùng về nội dung. Vì vậy, trong môi trường giảng dạy và nghiên cứu, nên xem AI như một cộng sự thông minh, với trách nhiệm rõ ràng được trao cho người học, vừa khai thác sức mạnh công nghệ, vừa nuôi dưỡng tư duy và đạo đức học thuật.

Theo tiến sĩ Duy Tân, việc tích hợp AI vào học thuật không phải để giảm nỗ lực mà để tăng hiệu quả – nếu sinh viên biết đặt câu hỏi cho AI, kiểm tra đầu ra và biến nó thành chất liệu cho tư duy của mình, thì AI sẽ trở thành nhân tố nâng cao chứ không là "máy làm hộ".

Thạc sĩ Phạm Văn Lới, Trường CĐ Công nghệ Thủ Đức, cho rằng AI giống như một trợ lý đắc lực trong dạy và học, mấu chốt nằm ở cách sử dụng. Tại khoa, sinh viên được hướng dẫn dùng AI để viết code theo mục tiêu đề bài, nhưng chính các em phải đánh giá, chỉnh sửa và chịu trách nhiệm về kết quả. Giảng viên chỉ đưa ra yêu cầu thực tiễn, còn giải pháp do sinh viên chủ động tìm kiếm, nhờ đó vừa tận dụng được AI, vừa rèn tư duy nghề nghiệp.

Tiến sĩ Lê Duy Tân cho biết thêm, đa số các trường ĐH hiện nay đều tổ chức tập huấn thường xuyên cho sinh viên về cách sử dụng AI đúng cách, có trách nhiệm. Đặc biệt, Thông tư 02/2025 do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành tháng 1.2025, có hiệu lực từ 11.3.2025, đã đưa “Ứng dụng trí tuệ nhân tạo” trở thành một trong 6 miền năng lực của Khung năng lực số cho người học. Điều này khẳng định AI không còn là “chuyện của tương lai” mà đã trở thành công cụ phổ biến trong học tập của sinh viên tại Việt Nam và trên thế giới.



Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.