"Chúng ta chỉ mê mải trong cái ao nhỏ bé của mình. Do đó chúng ta không biết thế giới ngoài kia đang diễn ra cái gì. Và vì thế, chúng ta đã đánh mất đất nước của mình” - bà Namgal Takler, chị dâu của Đức Đạt Lai Lạt Ma 14.
Đến Tây Tạng, bạn sẽ thấy đời sống tâm linh của dân chúng quan trọng như thế nào. Cuộc sống tâm linh ấy đã được hun đúc, tích tụ qua hàng ngàn năm. Gia đình nào cũng thờ Phật và treo ảnh của các vị Đạt Lai Lạt Ma. Nhưng nay tình hình đã khác, dân chúng được khuyến cáo chỉ được thờ các vị Đạt Lai Lạt Ma đời trước, không được tôn thờ Đạt Lai Lạt Ma 14 đang sống lưu vong. Những đại sư, lạt ma và học viên của tất cả các tu viện trên toàn lãnh thổ Tây Tạng hiện nay cũng buộc rơi vào tình cảnh tương tự.
Cung điện Potala ở Lhasa trước 1959 là cơ quan quyền lực cao nhất về chính trị lẫn tôn giáo của Tây Tạng. Ngày nay, cung điện ấy đã trở thành di sản văn hóa thế giới, vẫn uy nghi nhưng quyền lực thì không còn vì được biến thành bảo tàng. Hầu như ngày nào cung điện Potala cũng đón khách hành hương người Tạng từ khắp nơi trên lãnh thổ Trung Quốc cùng du khách thập phương đến viếng. Khác nhau ở chỗ du khách đến Potala giống như tham quan viện bảo tàng, nhưng người Tạng thì khác, họ viếng Potala với tâm tưởng của một tín đồ Phật giáo. Điều khác biệt ở chỗ cung điện Potala hiện nay có quá nhiều nhân viên an ninh với gương mặt lạnh lùng, theo dõi kỹ mọi hành vi của người hành hương và du khách. Trong cung điện ấy cũng có khá nhiều lạt ma, cũng mặc áo cà sa, cũng lần tràng hạt nhưng một số vị có nét mặt, ánh mắt hình như không phải của người chân tu gốc Tạng.
|
Công bằng mà nói, so với trước đây, chính quyền hiện nay ở Trung Quốc có thái độ “thoáng” hơn về tự do tín ngưỡng cho người Tây Tạng. Thế nhưng, hiểu chữ “thoáng” ở đây không có nghĩa là Trung Quốc khôi phục tất cả những gì diễn ra trong đời sống tâm linh của người Tây Tạng trong quá khứ, vì nhiều lễ hội, nghi thức xưa đã không còn tồn tại. Thậm chí Bắc Kinh còn chọn luôn một cậu bé nào đó được cho là hóa thân của Đức Phật để chuẩn bị tôn lên làm Đạt Lai Lạt Ma thứ 15 trong tương lai.
Sự can thiệp của chính quyền Bắc Kinh vào đời sống tâm linh thiêng liêng từ ngàn đời qua ở Tây Tạng đã gặp phải sự phản kháng của cư dân địa phương. Điều ấy là đương nhiên. Nhưng phản kháng bằng phương pháp bạo động trong hoàn cảnh hiện nay ở Tây Tạng là sai lầm, vì tiềm lực quân sự của Trung Quốc lớn mạnh, ngay cả những siêu cường như Mỹ và Nga còn phải dè chừng. Đó là lý do giải thích vì sao người Tạng đã chọn cách đấu tranh theo kiểu bất bạo động nhưng cũng “rất nóng”: tự thiêu! Nếu đến tham quan thủ phủ Lhasa, bạn sẽ thấy chính quyền địa phương chuẩn bị khá chu đáo nhằm đối phó trước những vụ tự thiêu phản kháng như thế nào.
|
Đế quốc Anh lúc xâm chiếm Tây Tạng đã không động chạm đến bất cứ thứ gì thuộc lĩnh vực văn hóa, tâm linh và lối kiến trúc cổ truyền bản địa. Người Anh cũng chẳng áp đặt tôn giáo, văn hóa hay cách sống Ăng-lê lên thủ phủ Lhasa như đã từng thực hiện ở Thượng Hải hay Hồng Kông. Không phải họ có quá ít thời gian để thực hiện ý đồ của mình mà theo tôi, vì họ thừa nhận Tây Tạng là một vùng đất linh thiêng, đất của Phật riêng một đỉnh trời, cho dù vùng đất ấy bước vào thế kỷ 20 rồi mà đời sống của cư dân vẫn cứ giống như thời Trung cổ, họ vẫn giữ nguyên như vậy. Và dĩ nhiên, người Tạng muốn sống như vậy và người Anh tôn trọng điều đó.
Đến Lhasa ngày nay bạn sẽ dễ dàng thấy chữ Hán hiện diện khắp nơi, những khu nhà kiểu Tàu như thường thấy ở Quảng Châu, Thượng Hải, Thành Đô… xuất hiện ngày càng nhiều. Nhà của người Tạng xưa nay có mái bằng, chứ không nhọn và uốn cong như nhà của người Hán. Ấy vậy mà không hiểu nguyên do và từ khi nào, nhà của người Tạng ở tỉnh Tứ Xuyên kế bên lại là nhà lai: thân Tạng, mái Hán. Những khu nhà ấy nhìn cũng thấy ngồ ngộ, khang trang, nhưng vẫn cứ là nhà lai, không giống với kiểu kiến trúc “khối vuông” bằng phẳng của Tây Tạng xưa. Người Tạng vốn sống theo trồng trọt và chăn nuôi, trao đổi hàng hóa là chính. Đó là lý do giải thích vì sao các dịch vụ về thương mại, tài chính, ngân hàng, bất động sản, nhà hàng, khách sạn… đều do người Hán quản lý. Nói đến ăn uống ở Lhasa, ấn tượng nhất đối với tôi là nhà hàng có tên “Hồng vệ binh”. Ấn tượng một phần vì món lẩu ở đây ngon, phần khác do cách bày trí và trang phục của tiếp viên nhà hàng: tất cả đều mặc quân phục Hồng vệ binh như thập niên 1950-1960, trên tường treo đầy hình ảnh lãnh tụ Mao Trạch Đông. Ngồi trong nhà hàng này có cảm giác như đang ở trong... doanh trại quân đội vậy.
Người Hán không hề giấu giếm sự hiện diện của mình đối với vùng đất mà họ đã có công “giải phóng” cư dân bản địa thoát khỏi sự lãnh đạo của tầng lớp tăng lữ và giới quý tộc cũng như sự “bóc lột” của giai cấp địa chủ người Tạng, để hướng tới một cuộc sống khấm khá hơn. Xét về mặt kinh tế và hạ tầng cơ sở của Lhasa thì điều đó đúng như vậy. Lhasa ngày nay khang trang, hiện đại hơn nhiều so với trước năm 1959 nhờ sự đầu tư của chính quyền trung ương Trung Quốc. Một bộ phận người Tạng đã có dịp được tiếp xúc nhiều hơn với du khách nước ngoài. Thế nhưng cũng giống như các thành phố khác trên toàn lãnh thổ Trung Hoa, ở Lhasa cũng có sự phân hóa giàu - nghèo và cái sự giàu ấy không “bình quân, chia đều” mà đa số rơi vào tay người Hán. Điều này cũng dễ hiểu vì người Hán đã có kinh nghiệm giao thương với phương Tây từ hàng trăm năm trước, lúc mà người Tạng vẫn còn sống biệt lập theo chế độ tự cung tự cấp. Nếu có dịp ghé thăm vùng nông thôn Tây Tạng, bạn sẽ không thể ngờ đã bước sang thế kỷ 21 rồi mà họ vẫn còn sử dụng phân súc vật làm chất đốt và cái toilet vẫn cứ sơ khai như thời xa lắc xa lơ. Có vẻ như người dân Tây Tạng hài lòng với cuộc sống nông thôn nghèo khó và lam lũ như vậy mặc cho “vật đổi sao dời” trong phần còn lại của thế giới văn minh, miễn đừng ai động chạm đến họ là được.
Cuộc sống khép kín đôi khi cũng có lợi, nhưng cái hại thì cũng không thể lường hết được. Tây Tạng là một ví dụ điển hình cho nhận định ấy. Bà Namgal Takler, xuất thân trong một gia đình quý tộc ở Lhasa, là chị dâu của Đức Đạt Lai Lạt Ma 14, rời Tây Tạng năm 1956, hiện đang làm việc cho chính phủ Tây Tạng lưu vong ở Little Lhasa trên đất Ấn Độ, nói lên suy nghĩ của mình trong bộ phim tài liệu có nhan đề The Lost world of Tibet (Cõi trần gian bị đánh mất của Tây Tạng) do BBC thực hiện: “Chúng ta đã mù quáng. Chúng ta không biết gì về thế giới bên ngoài Tây Tạng. Chúng ta chỉ mê mải trong cái ao nhỏ bé của mình. Do đó chúng ta không biết thế giới ngoài kia đang diễn ra cái gì. Và vì thế, chúng ta đã đánh mất đất nước của mình”.
Vì mê mải và mù quáng mà phải đánh mất một cái gì đó là điều có thể hiểu được. Nhưng ngay cả khi chúng ta có đầy đủ thông tin thời @, có đủ chứng cứ, có đủ tư cách để chứng minh vùng đất ấy, những quần đảo ấy, vùng biển ấy là chủ quyền của mình mà vẫn cứ mất vào tay kẻ bành trướng thì lý giải sao đây? Chả lý giải gì cả, vì một nước đông dân nhất thế giới như Trung Quốc cần phải có càng nhiều tài nguyên càng tốt, và những vùng đất, vùng biển láng giềng được xếp vào diện “ưu tiên chiếm hữu”. Lịch sử đã chứng minh rằng Tây Tạng không phải là trường hợp cá biệt trong “chính sách chiếm hữu” của Bắc Kinh. Vấn đề là đối sách như thế nào cho hiệu quả nhất trong hoàn cảnh ngặt nghèo ấy. Bằng ngược lại, hậu quả chắc chắn sẽ thê thảm, tệ nhất là sự “Hán hóa” về sinh sản di truyền để cho ra đời các thế hệ đại loại như Hán-Mông, Hán-Mãn, Hán-Tạng... Rồi đến một thời điểm nào đó trong tương lai, vì là tộc người chiếm đa số, sự “Hán hóa” ấy đạt được mục tiêu “đồng hóa trọn vẹn” như đã từng diễn ra trong quá khứ. Nếu điều đó xảy ra, sẽ có rất nhiều “cõi trần gian bị đánh mất” chứ không riêng gì Tây Tạng. Đến lúc ấy thì đã quá muộn, vì sự “đánh mất” không phải chỉ tạm thời mà có thể là vĩnh viễn…
Đoàn Xuân Hải
>> Tại sao Tây Tạng ?
>> Tại sao Tây Tạng - Kỳ 2: Chốn linh thiêng
Bình luận (0)