Nhà thơ ẩn mình ở làng phong
Chúng tôi trở lại làng phong Quy Hòa một chiều đông, khi những cơn mưa đang dần nặng hạt. Ông Huỳnh Ngọc Hải (79 tuổi, quê ở Quảng Nam) tiếp chúng tôi sau khi được sự giới thiệu của ông chủ tịch hội đồng người bệnh phong ở đây. Ông Hải là một trong số ít người lớn tuổi của làng, chứng kiến những hình thành và đổi thay từ những năm 1970. Những câu chuyện, giai thoại về nhà thơ Hàn Mặc Tử được người làng, trong đó có ông lưu lại như một niềm tự hào.
Hàn Mặc Tử (tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912) bị phát hiện mắc bệnh từ năm 1936. Trong một lần kỳ lưng giúp con trai, mẹ Hàn Mặc Tử phát hiện có những đốm màu hồng nhạt. Lúc đầu, mọi người nghĩ đơn giản là nổi mề đay do dị ứng nhưng rồi, những đốm này ngày càng lan rộng và đỏ tấy lên. Tử được chẩn đoán là mắc bệnh phong. Thời bấy giờ, bệnh phong là một trong tứ bệnh nan y, là án tử treo lơ lửng mà ai mắc phải đều trải qua những tháng ngày đày đọa đáng sợ tới lúc chết. Lúc này, Hàn Mặc Tử được gia đình đưa đi sống kiểu chạy trốn ở khắp nơi, từ Bồng Sơn (H.Hoài Nhơn, Bình Định) tới Gò Bồi (H.Tuy Phước, Bình Định) đến TP.Quy Nhơn. Sau đó, khi bệnh trở nặng mới đưa vào làng phong chữa trị.
“Không một ai ở đây biết Hàn Mặc Tử là nhà thơ cả. Mãi cho đến lúc chết, khi lục lại đồ đạc, kỷ vật của ổng thì thấy một bài văn viết bằng tiếng Pháp có tên La pureté de l’âme nghĩa là Sự trong sạch của tâm hồn. Lúc này, cả làng mới biết ông là nhà thơ. Bởi hồi ấy, những người vào sống ở đây đều có một mặc cảm rất lớn với xã hội. Nên sống cùng nhau đó nhưng gốc tích thì thường được giấu đi. Chúng tôi, giống như những người bị gạt ra bên lề cùng căn bệnh. Nhưng đau đớn, thương tổn về thể xác khiến tinh thần cũng ngày càng kiệt quệ. Nhưng Hàn Mặc Tử thì khác, vì trong quãng thời gian ấy, có ai ngờ, những vần thơ hay nhất, đặc sắc nhất đã được ra đời”, ông Hải kể lại.
Lúc viết Sự trong sạch của tâm hồn rồi cất trong túi áo, hai bàn tay Hàn Mặc Tử đã bị co quắp, viết lách khó khăn. Thời gian sống ở đó, ông được người em họ là Phạm Hành cứ mỗi tuần một lần đạp xe từ Quy Nhơn vào làng phong để tiếp tế lương thực cho anh. Một điều đặc biệt nữa là mặc dù rất giỏi tiếng Pháp nhưng lúc ở làng phong, Hàn Mặc Tử giấu đi, mãi đến khi có bài văn cuối cùng thì mọi người mới vỡ lẽ.
Đám tang trong lặng lẽ
Nhiều người đã đặt câu hỏi, liệu Hàn Mặc Tử có thể cho ra đời tập Thơ điên nếu không có những ngày cuối đời ở Quy Hòa? Bởi cảnh sắc nơi đây như đã là một món quà quý đối với những người mắc bệnh phong. Ông Huỳnh Ngọc Hải nhớ lại: “Tôi mắc bệnh và đến đây từ năm 1974. Lúc đó, Quy Hòa không khác gì một thiên đường nơi hạ giới. Màu xanh gần như bao phủ hết cả làng. Rừng dừa và rừng dương bạt ngàn. Còn biển thì sạch tuyệt đối. Mọi thứ gọn gàng, sạch sẽ và đường sá đâu ra đó hơn bây giờ nhiều. Đặc biệt là kiến trúc những ngôi nhà ở đây được xây theo phong cách Gothic”. Ông Hải kể: “Hồi đó, năm 1974, một tờ nhật báo ở Sài Gòn đã về đây viết bài về làng phong, bài báo kể rất nhiều, trong đó tôi nhớ nhất câu “Quy Hòa trông giống như một kinh đô ánh sáng”. Thời điểm ấy là lễ Noel, những chiếc đèn bạch lạp giăng mắc khắp nơi, từ trong nhà ra ngõ, rồi những thân cây cũng treo đèn khiến đêm rực sáng lấp lánh. Tôi đã nghĩ, ở vùng đất thần tiên này, ai cũng có thể làm văn, làm thơ vì say với cảnh, với tình người nơi đây!”.
Hàn Mặc Tử trút hơi thở cuối cùng vào đêm 11.11.1940. Mang bệnh phong nhưng nhà thơ không chết vì phong mà chết vì bệnh kiết lỵ, lục phủ ngũ tạng cũng bị hư hại nhiều do uống thuốc bên ngoài. Ông Viết Hiền, một nhà nghiên cứu về Hàn Mặc Tử tại Bình Định cho biết: “Có nhiều thông tin không đúng về nhà thơ như trong vở cải lương Chuyện tình Hàn Mặc Tử có đoạn bà Mai Đình đến thăm ông tại nhà riêng phải che mắt, vì nhà thơ mặc cảm bệnh tật. Lúc này, Hàn Mặc Tử chưa có những di chứng của người bị phong nặng như hốc mắt biến dạng, phải tháo khớp tay, chân. Hay những thông tin như đưa cơm cho Hàn Mặc Tử qua cửa sổ cách ly… tôi cho đó là thêu dệt”. Đồ đạc mà ông để lại chỉ có một bộ bà ba trắng, một áo vest cũ, một đôi giày rách, một cái gối con, một cuốn sách của nhà văn Pháp và bài Pháp văn viết bằng bút chì, không một đồng tiền nào trong người. Đám tang của ông được tổ chức lặng lẽ chỉ với chừng 4 - 5 người và cha xứ.
Người sáng lập làng phong Quy Hòa là linh mục Paul Andre Maheu. Năm 1929, vị linh mục này cùng bác sĩ Le Moine tìm thấy một thung lũng thích hợp cách TP.Quy Nhơn khoảng 5 km về hướng nam để xây dựng bệnh viện cho những người bệnh phong.
|
Bình luận (0)