Thơ miền Trung có thể dữ dội nồng nàn như thơ Thu Bồn, tỉnh táo mà day dứt như thơ Ý Nhi, hồn nhiên đằm thắm như thơ Mỹ Dạ... Và cũng có thể điềm tĩnh để bùng nổ trong lặng lẽ như thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (trái) và nhà thơ Thanh Thảo - Ảnh: Trần Đăng |
Tôi đọc thơ Nguyễn Khoa Điềm từ cách đây mấy chục năm, cũng đã có vài ba lần viết về thơ Nguyễn Khoa Điềm, dẫu không dám nói là đã hiểu hết thơ anh. Tôi cũng đã quen biết rồi thân với Nguyễn Khoa Điềm từ hơn hai chục năm nay, nhưng không dám nói là đã hiểu hết anh. Nguyễn Khoa Điềm là người kín đáo. Tôi nhớ có lần cùng đi về Dung Quất với nữ nghệ sĩ điện ảnh Trà Giang và Nguyễn Khoa Điềm, lúc đó là Bộ trưởng Văn hóa, khi chỉ riêng hai chị em, chị Trà Giang nói nhỏ với tôi: “Mình thấy ông Điềm như chả bao giờ cười”. Tôi cũng nói nhỏ với chị Trà Giang: “Có lẽ ông ấy chưa cười chứ không phải không cười”. Đúng thế thật, vì sau đó chỉ ít phút, chị Trà Giang đã tận mắt chứng kiến anh Nguyễn Khoa Điềm… cười. Hình như sau khi tôi nói một câu gì đó. Mà hầu hết những câu kiểu đó của tôi đều bậy bạ, chả đâu vào đâu.
Mỗi lần có dịp chọn thơ cho một “show” trình diễn, tôi thường thích chọn bài thơ Chiều Hương giang của Nguyễn Khoa Điềm. Tôi yêu bài thơ giản dị này, và yêu nhất là cái con người, cái “nhân vật” nhà thơ trong bài thơ bình thản đánh bạn với… con bò, trong một chiều nghi ngút cô đơn:
“Nhưng chiều nay con bò gặm cỏ
Bên dòng sông như chưa biết chiều tan
Tôi với nó lặng im bè bạn
Mắt nó nhìn dìu dịu nước Hương giang” (Chiều Hương giang)
Khi đọc đoạn thơ ấy, trong tôi hiện ra một nét cười lặng lẽ của tác giả, và tôi biết có những lúc trong đời, ta chỉ muốn thủ thỉ với… con bò hay con chó, và những lúc ấy, ta cảm thấy nhẹ lòng biết bao. Người ta nói thơ như Nguyễn Khoa Điềm là thơ hướng nội. Tôi không nghĩ có những nhà thơ hoàn toàn hướng nội hoặc hoàn toàn hướng ngoại. Nhà thơ nào cũng phải hướng nội mới làm được thơ, nếu không thì chỉ được những câu vần vè tuyên truyền hay quảng cáo. Và nhà thơ nào cũng phải có phần hướng ngoại khi muốn thơ mình có người đọc, có người chia sẻ. Vấn đề để phân biệt ở đây là có những nhà thơ chỉ hài lòng khi kiếm càng đông người hâm mộ càng tốt, và có những nhà thơ chỉ mong được một ít, thậm chí vài ba người chia sẻ, là đủ vui rồi. Có thể Nguyễn Khoa Điềm thuộc dạng “những nhà thơ thứ hai”, những người chỉ thích "lặng". Khi ngồi trước bệnh xá cũ của chị Đặng Thùy Trâm trên một ngọn núi ở Đức Phổ giáp Ba Tơ, Nguyễn Khoa Điềm viết:
"Chiếc hầm cũ đau như tròng mắt
Nhìn vào ta thăm thẳm, bơ vơ” (Ngày về)
Tôi bảo đảm, trong hoàn cảnh ấy, sẽ có những nhà thơ khác viết khác. Nhưng Nguyễn Khoa Điềm - một người đã quen với những căn hầm cũ ở chiến khu - lại thấy nơi cái rỗng không của một căn hầm “đau như tròng mắt” ấy hiện về cả một quá khứ chiến tranh và đôi mắt của người bạn gái cùng trường Chu Văn An đang “thăm thẳm” nhìn mình, một cái nhìn “bơ vơ”, côi cút. Như đã tới tận cùng của “cõi lặng”, và cũng không nói gì cả. Không hàm ngôn ẩn nghĩa gì cả. Chỉ đau. Và chưa chắc đã muốn chia sẻ nỗi đau ấy với ai.
Thơ không mang lại cho ta nhiều vinh quang lắm đâu, nhưng có thể quàng nỗi đau của người vào cho ta, và mang nỗi đau của ta tới cùng người. “Nhiều khi đá dạy ta mềm mỏng” (Hy vọng), đơn giản vì đá sống lâu hơn ta, kiên nhẫn và lặng lẽ hơn ta. Nhưng cũng cứng rắn hơn ta. Bởi phải biết cứng rắn mới học được sự mềm mỏng, và phải kiên định như đá mới cảm được hết sức mạnh của dòng nước:
"Anh trôi đi cùng phù du phiêu sinh vật, những
tiếng chuông không ngày về
Những ngọn cỏ khô không nguồn gốc, những
người mẹ đắm đò, những câu mái nhì mất tích
Anh trôi đi với trận bão năm Thìn, nhịp cầu bị
đánh sập năm Thân
Những cây bèo tím” (Sông Hương)
Khi ta nói, thơ của một tác giả thuộc về dòng thơ miền Trung, thì không chỉ vì tác giả ấy quê ở miền Trung, mà còn vì khí chất của sông núi miền Trung đã hiện lên như không thể khác trong thơ của họ:
"Một mùa hè trỗi những đám mây bất thường
Sừng sững như dãy phao cửa biển” (Định vị)
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường (trái) cùng nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm - Ảnh: Ngô Minh
|
"Mãi khi vầng trăng treo trước cửa
Chợt nhớ khuôn mặt hiền xót xa
Nghiêng xuống cánh đồng ngày xưa
Vì sao không thể yêu mến hơn?
Vì sao không xanh tươi hơn?
Vì sao không trong sạch hơn?” (Trong những buổi chiều)
Người ta nói những dằn vặt trong thơ cũng là những dằn vặt có tiết điệu, là vậy. Nếu có âm nhạc trong thơ thì âm nhạc trong thơ Nguyễn Khoa Điềm được kìm nén tối đa, có thể gọi là “âm nhạc tối thiểu”. Một số nhà thơ lớn trên thế giới đã đi theo trường phái thơ có “âm nhạc tối thiểu này”, và ở Việt Nam tôi thấy có Văn Cao, một phần Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm.
"Có một nỗi buồn
Canh cánh
Sau vai anh
Trước một tầm với
Đâu đó
Trên chiếc lá còn sống
Trong mây, ngày sau mưa” (Có một nỗi buồn)
Khi đã chọn được cho mình lối thơ tiết chế với âm nhạc tối thiểu như vậy, Nguyễn Khoa Điềm có thể khiến từng chữ trong câu thơ có được sự tự tại, như cách mà nhà thơ tự tại:
“Đứng đấy tự bao giờ, bên dòng sông cũ
Con bò gặm cỏ
Chậm rãi
Một ít bóng đêm và ít hạt bình minh
Từng miếng một, nhai và thở” (Cỏ ngọt)
Thả lỏng hồn nhưng kiểm soát chữ và tiết nhịp của chữ, thơ Nguyễn Khoa Điềm nhiều lúc rất gần với thơ cổ điển, nhưng có lúc lại khiến ta giật mình bởi tính thời sự và đương đại của nó ẩn trong những hạt chữ kìm nén:
“Những giọt nước mắt
Thật buồn
Thật lặng lẽ
Trước bức chân dung
Người lính Điện Biên vừa tròn trăm tuổi
Của một người tù.
Trận chiến Lịch Sử
Đã phá tung mọi xiềng xích?
Người họa sĩ trẻ
Từ sau song sắt
Vẫn bình tâm
Dành lòng biết ơn
Không dứt
Cho một người lính già” (Bức chân dung người lính già)
Bài thơ được kìm nén tới từng dấu chấm (.) từng dấu hỏi (?), và âm nhạc tối thiểu của nó đã giúp bài thơ bùng nổ trong tâm trí người đọc, một sự bùng nổ đi với lòng cảm phục. Đâu cần phải đại ngôn hay lắm lời, thơ mới bùng nổ!
Tôi nghĩ, thơ Nguyễn Khoa Điềm có thể đại diện cho thơ miền Trung ở độ kìm nén tối đa và âm nhạc tối thiểu đó, “như bãi mìn/vùi dưới đất nhiều năm/” (thơ Thanh Thảo).
Bình luận (0)