Tác phẩm dày trên 300 trang, bìa cứng, gồm 23 bài kèm nhiều tranh, ảnh màu chụp nguyên bản các bài thơ, hiện vật, công trình kiến trúc liên quan giúp bạn đọc hiểu được thế giới tinh thần của các Hoàng đế triều Nguyễn tiêu biểu - yếu tố quan trọng nhất định hình nhân cách và mọi hoạt động người đứng đầu đất nước; do đó, qua đây, chúng ta hiểu thêm thực trạng xã hội đương thời.
Tác giả đã dẫn tư liệu của Viện Hán Nôm cho biết, “trong 63 năm (từ 1820 đến 1883), các hoàng đế Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đã “ngự chế” 15.097 bài thơ văn dài ngắn khác nhau… Đó là một số lượng trước tác cực kỳ lớn, thực sự đã tạo nên một kỷ lục thi ca trong lịch sử văn chương của Việt Nam”. Về quan điểm nghệ thuật, tuy mỗi nhà vua có phong cách riêng của mình, “nhưng cùng chung một mạch rễ truyền thống từ thi dĩ ngôn chí và văn dĩ tải đạo”. Chúng ta thấy rõ điều đó qua “tự bạch” của các nhà vua.
“… Những thơ ta làm đó phần nhiều là mình tự dạy mình về đạo kính trời yêu dân, so sánh lúc tạnh lúc mưa để xem thời tiết, không có lời hoa hòe chải chuốt để cho người ta thích nghe…” (Minh Mạng)
Có lẽ vì thế, tác giả không đặt trọng tâm vào việc phân tích nghệ thuật thơ mà “suy ngẫm” nhiều về đạo lý, về trách nhiệm của người đứng đầu đất nước đối với với xã hội, với đời sống muôn dân qua những vần thơ. Xét về khía cạnh này, vua Minh Mạng thực sự tiêu biểu và những vần thơ, những suy tư của nhà vua từ gần hai thế kỷ trước vẫn có ý nghĩa thời sự.
Chỉ riêng một bài thơ Tự huấn (Tự răn mình) của vua Minh Mạng, tác giả đã dẫn giải, “suy ngẫm” thành một tiểu luận dài 10 trang sách. Tự huấn gồm 8 câu chữ Hán; ở đây (cũng như toàn bộ thơ trích dẫn tiếp) chỉ giới thiệu bản dịch:
“Đạo vua phải lắng nghe/ Luôn phân biệt tà chính/ Tin dùng lẽ thẳng ngay/ Chớ nghe lời xu nịnh/ Kẻ gian lo nhà mình/ Người trung chăm triều chính/ Sai một li - một dặm/ Ngày đêm lòng như kính”.
Bài thơ “tự răn mình” nhưng cũng có thể nói đây là “tuyên ngôn” của nhà vua về nguyên tắc ứng xử trong chính sự quốc gia, về cách dùng người, chọn người cộng tác. Vua Minh Mạng xem bài thơ là “quân đạo” (đạo của vua) và mùa thu năm 1820 đã viết “chiếu” cầu lời nói thẳng: “Trẫm nghe đường ngôn luận mở rộng thì nước mới trị… Vua muốn nghe lỗi của mình, tất phải đợi ở tôi ngay. Vậy cho các văn võ ở Kinh từ Tứ phẩm trở lên, các quan thành dinh trấn ở ngoài đều lo cố gắng, đua nhau đối đáp rõ rệt, hoặc lỗi chính ở trẫm, về kính đức nối sáng có thiếu, về nhân ân yêu giữ chưa tròn… Lại phàm nghe thấy chính sự có thiếu sót, dân tình có khổ sở, đều cho dùng phong bì mà tâu thực lên… để vua tôi sửa chữa lẫn nhau…”.
Nhà vua không chỉ khuyên răn hay ra lời kêu gọi mà đã chứng tỏ “quân đạo” của mình bằng hành động cụ thể. Năm 1830, khi hai quan đại thần là Phan Thanh Giản và Trương Đăng Quế “dâng lên vua một bài tụng với những lời hoa mỹ… ngợi ca vua chuyên cần chính sự; vua Minh Mạng… phê thẳng vào bài văn: Trẫm có thích nịnh ngoài mặt đâu? Vậy ném trả lại và truyền chỉ quở mắng”.
Sự nghiêm minh của vua Minh Mạng, kể cả với con cháu trong hoàng tộc, đã có nhiều sách báo nói đến. Nhà vua cũng đặc biệt quan tâm đến nông nghiệp và đời sống nông dân, nên cuốn sách đã có ba tiểu luận về chủ đề này: Bức thư pháp ngự bút và ngự đề của vua Minh Mạng về nhà nông, Ngạn ngữ nhà nông qua chùm thơ của vua Minh Mạng, Thơ vua về lễ Tiến xuân, một điển lễ trọng nông. Nguyễn Phước Hải Trung nhận định:
“Trong lịch sử trung đại, vua Minh Mạng có lẽ là một nhà thơ viết nhiều nhất về nông nghiệp, về nông dân. Đề tài này tràn ngập trong sáng tác của nhà vua với hàng trăm bài…”.
Xin trích bài dịch Vị nông ngâm nhà vua viết năm 1832:
“Đêm đón mưa vui trận trận qua/ Hạt tuôn từng đợt gió ngân nga/ Hắt hiu giá rét mùa xanh lá/ Lõm bõm đồng sâu áo bạc tà/ Mặc ấm ghi ơn người dệt vải/ Ăn no nhớ nghĩa kẻ đồng xa/ Bao đời trọng nỗi gian nan ấy/ Chẳng lúc nào ngơi tiếng ngợi ca”.
Đọc Vị nông ngâm thời điểm hiện nay có ý nghĩa như một lời nhắc nhở chúng ta, mặc dù xu hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa đang mạnh mẽ tiến bước, không gì ngăn được, nhưng xin chớ quên nông nghiệp và nông dân luôn là chỗ dựa, là cơ sở bảo đảm an ninh cho đất nước, nhất là trước những biến động khó lường của thế giới, môi sinh… mà dịch Covid-19 đang làm đảo điên các khu công nghiệp là bằng chứng nóng hổi.
Trong khoảng 4.000 bài thơ của vua Minh Mạng, đặc biệt có một bài giúp chúng ta “đính chính” ngộ nhận của nhiều người rằng triều Nguyễn có luật “tứ bất lập”, trong đó có điều quy định không lấy trạng nguyên. Nguyễn Phước Hải Trung có đủ căn cứ để minh chứng điều đó chỉ là suy đoán của hậu thế, do các kỳ thi từ thời Minh Mạng trở về sau không chọn được trạng nguyên. Bài thơ của vua Minh Mạng Kêu gọi khích lệ sĩ tử tại kỳ thi Hội khi đến xem kỳ thi năm 1838 là một bằng chứng bổ sung khó tranh cãi:
“Hôm nay rét lạnh đã ban than/ Đem hết tinh hoa kiếm trạng nguyên/ Năm lạnh bách tùng lên tươi tốt/ Cùng nhau gắng sức báo ơn trên”.
Như vậy, mặc dù nhà vua khao khát tìm nhân tài muốn có trạng nguyên, nhưng rút cuộc kỳ thi Đình năm đó chỉ lấy được 2 người “Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân” (còn gọi là Hoàng Giáp). Bài thơ không chỉ bác bỏ sự suy đoán không có căn cứ về lệ “tứ bất lập” mà “còn nói lên khoa cử vào thời bấy giờ rất chú trọng tính khách quan, một lối tư duy đào tạo hướng đến thực chất…”.
|
Trong ba nhà vua đã dẫn ở trên với hơn vạn bài thơ, vua Thiệu Trị có số lượng ít nhất (3.200 bài); tuy vậy, theo nhà nghiên cứu cứu Hán Nôm Lê Nguyễn Lưu (người đã dịch và in tuyển 1.000 bài thơ Đường) thì về nghệ thuật thơ, thơ của vua Thiệu Trị còn hay hơn vua Minh Mạng và Tự Đức. Đặc biệt ông có nhiều bài thơ được khắc hay khảm nổi bằng ngà, xương hay đồi mồi trên những ô hộc tại Điện Long An. Trong tập Ngự chế cổ cách thi pháp gồm 157 bài với nhiều hình thức chơi chữ khác nhau rất trí tuệ, trong đó kỳ công nhất là bài thơ Vũ trung sơn thủy được khảm trai (cẩn xà cừ) hiện đang treo trên vách điện Long An (Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế), chỉ 56 chữ mà biến hóa tài tình. Trong một bài viết trước đây, Nguyễn Phước Hải Trung cho biết, năm 1994, Nguyễn Tân Phong đã giải mã đọc thành 64 bài tứ tuyệt và tiếp đó, GS Nguyễn Tài Cẩn lại đọc được thành 64 bài bát cú. Đây là thể thơ hồi văn liên hoàn, nghĩa là xuất phát từ điểm nào cũng có thể đọc thành câu, thành bài. Bây giờ, một số nhà thơ chuộng “cách tân” hình thức cũng “chơi” trò thách đố chữ nghĩa, nhưng dễ gì sánh được với vị vua hơn hai thế kỷ trước.
Về “ông vua thi sĩ” Tự Đức với số lượng kỷ lục khoảng 4.600 bài, Nguyễn Phước Hải Trung chọn bình bài Mạn ca có lẽ do bài thơ đã phản ánh được nội dung cốt lõi “hệ tư tưởng văn hóa thời Nguyễn… Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo là ba tôn giáo có vị trí quan trọng, chi phối mạnh mẽ đến hệ tư tưởng văn hóa thời Nguyễn. Đặc biệt sự gặp gỡ của tính thiện, tính nhân của ba tôn giáo này được xem là điểm mấu chốt để tạo nên sự “đồng nguyên”,“đồng quy” trong suốt chiều dài lịch sử thời trung đại của Việt Nam…”.
Mạn ca (Khúc hát tản mạn) thể hiện tinh thần “tam giáo đồng nguyên” ấy gồm 17 câu chữ Hán (bài dịch do cần diễn giải rõ ý thành 20 câu), “nhưng tính cô đúc của những lẽ đời giản dị được Tự Đức trình bày rất mạch lạc”. Tính triết lý trong mỗi cặp câu thơ thật giản dị, dễ hiểu mà sâu sắc, giúp con người sống phải tử tế hơn. Thì đó, biển rộng - sông dài khác xa mương rãnh, nhưng cũng chỉ là nước thôi!...
Một điều cần nói thêm là cuốn sách mới Thơ vua và suy ngẫm của Nguyễn Phước Hải Trung, ngoài phần giới thiệu các bài thơ còn cho chúng ta biết rất nhiều bài thơ của các nhà vua triều Nguyễn đã được trình bày với tính thẩm mỹ cao, nên đồng thời trở thành một tác phẩm mỹ thuật đặc sắc, xứng đáng được bảo tồn như một di sản văn hóa của nhân loại. Do đó, khi trùng tu các công trình trong Hoàng thành Huế hiện nay, xin hãy cẩn trọng lúc “đụng chạm” đến những bảo vật vô giá này…
Bình luận (0)