Các dân tộc thiểu số trong cộng đồng 54 dân tộc ở Việt Nam sống trong những vùng nghèo khó miền cao. Do vậy, cây tre, cây nứa đã trở thành loài cây thân thuộc với họ.
Các dân tộc Cor, Cơtu, Giẻ Triêng, M’nông, Ve... làm nhà ở, nhà kho cho đến nhà làng (nhà rông hay nhà gươl) bằng cây giang cây nứa, kể cả tấm phên làm vách, hàng rào, cổng ngõ, nấu cơm lam, cơm nếp trong ống tre, đựng nước, đựng rượu Tà vạt trong ống nứa, làm cung tên để chống lại quân thù và săn bắn cũng bằng tre... Đặc biệt, trong tất cả các lễ hội, cây tre không bao giờ thiếu. Tác giả không đi sâu mô tả các lễ hội mà chỉ nhấn mạnh rằng loài tre là một vật dụng, phương tiện cần thiết trong các lễ hội đó.
* Cây tre trong lễ hội người dân tộc
Trong lễ đâm trâu của người Cơtu, bên cạnh cột Xờ-nur dùng cột trâu cúng cho Yàng dựng trước nhà gươl, bao giờ cũng có hai cây tre phướn ở hai bên với các dãi tua đan kết bằng nan tre trang trí. Khi chiêng trống nổi lên cùng với các điệu múa Tung Tung, Ya Yá quanh cột Xờ-nur, các thiếu nữ múa đều mang gùi tre đựng những cây nứa và các loại lá cây để đón khách. Khi trâu cúng Yàng đã bị đâm chết, già làng khấn xong, thường cắt đuôi trâu nhúng máu ném lên đỉnh Xờ-nur, nơi có chiếc phễu cũng đan bằng tre. Chiếc phễu tre được coi là nơi tiếp nhận lễ vật và lời cầu khẩn của dân làng với Yàng.
Trong lễ Peng Chu-pi của người Xê đăng (bắn heo, dê để cúng thần) diễn ra trong 3 ngày liên tiếp, ngoài trống và chiêng lớn, người Xê Đăng thường trang trí cây cột lễ rất đẹp. Vật trang trí thường kết hợp giữa tre, gỗ với các họa tiết truyền thống. Mỗi cây nêu thường cột vào một con dê, con heo. Trai tráng khỏe mạnh trong làng được chọn để bắn tên vào các cây nêu và các con vật làm lễ hiến tế cho thần. Đó là nghi thức quan trọng nhất được thực hiện trong ngày thứ hai của lễ.
Người Ca Dong có lễ cúng máng nước liên quan đến việc làm nương rẫy của họ dọc Trường Sơn. Họ coi sự tồn tại của mình là do các nguồn nước, nên sau mỗi mùa thu hoạch, đưa lúa về kho là họ cử hành lễ. Mỗi gia đình phải mang đến lễ những ống cơm lam (nấu trong ống nứa) bằng số nhân khẩu của nhà mình và rượu. Con gà hiến tế của làng được cắt cổ tại máng nước. Dùng ống tre lồ ô hứng nước có huyết gà về nấu thức ăn dâng cúng Yàng và tổ tiên...
Người Ve và người Giẻ Triêng lại có tục cúng cơm mới trước mùa thu hoạch. Lúa được lấy từ “rẫy thiêng”, nơi có thần lúa ở, về nấu cơm trong những ống tre lồ ô. Người Cor ở Trà My có lễ hội ăn trâu để cúng thần khi kết thúc mùa lúa. Những cây nêu bên cột lễ cúng là những cây tre trang trí rất đẹp. Người Bh’nong ở huyện Phước Sơn có lễ hội ăn mừng chiến thắng (Pơ Truh) và tục bắt chồng. Cây nêu của lễ hội thường được trang trí rất đẹp bằng các tua tước ra từ cây tre lồ ô hoặc cây nứa dài từ 1- 2 mét có chạm nhiều hình chim, cắm thêm nhiều mũi tên, giáo mác biểu trưng cho sự dũng mãnh của thần chiến thắng. Vào ngày thứ ba của lễ hội diễn ra tục bắt chồng. Già làng dâng lễ vật bằng một con gà và vài bình rượu. Già làng dùng que tre nhúng rượu để rảy ra chung quanh và bôi huyết gà lên cổ cô gái và chàng trai bị bắt...
* Tre trong nghệ thuật dân gian người thiểu số
Hát ru, hát lý, hát nhân ngãi là những thể loại nghệ thuật dân gian của người dân tộc thiểu số dọc Trường Sơn. Theo đó, hình ảnh cây tre thân thuộc, cũng như nghệ thuật người Kinh, người dân tộc đã được khai thác, vận dụng như một hình tượng sống động để bày tỏ tình cảm. Hãy nghe những câu hát đối đáp sau đây của đôi trai gái người Xê Đăng:
- Ơ, cô gái đánh đàn môi ơi,
Nửa đêm ta mơ thấy măng mọc
Ta chỉ ngắm mỗi bụi tre nhiều măng tua tủa
Không biết cha em ở nhà có ưng không...
- Măng đó chạm vào ngứa, có ai dám rờ
Bụi tre có nhiều gai có ai dám đến...
Còn người con trai Bh’noong:
Em hát dưới cây nêu
Giọng em bay cao hơn tiếng chim
Dưói cây nêu em hát
Anh nghe như uống rượu say
Ngày mai làm sao đi tìm...
* Tre, nứa trong các nhạc cụ truyền thống
Trong các nhạc cụ dân tộc người thiểu số, ở bộ khí, có lẽ cây tre, cây trúc, cây nứa, cây lồ ô chiếm tuyệt đại bộ phận trong các nhạc cụ loại này. Người Cơtu ở Nam Giang có cây Abel 3 lỗ, bộ khèn 14 lỗ, sáo A lướt 9 lỗ, sáo Tuốt (như cây tiêu dài 40cm), sáo Tơ rêt 3 lỗ, sáo Ahen thổi bằng lưỡi gà, có một lỗ dưới và 3 lỗ trên, đều làm bằng tre nứa. Người Cor ở Trà My có đàn bầu Và ró 2 dây-4 phím với ống nứa làm cần đàn, đàn Cà đóc gồm ống nứa dài 80cm nối với ống tre ngắn 15cm bịt mo cau ở đầu, cần đàn là thanh tre già; đàn R’ngoáy (môi), sáo T’lía cũng từ cây tre mà ra. Người Ve và T’riêng ở sát biên giới Lào có cây Blăm-BHing bằng cây lách già, cây Bhing buôl bằng ống nứa là những nhạc cụ bày tỏ tình yêu đặc sắc; ống Dưng (gõ phách) bằng lồ ô già; bộ Điêng-tut gồm 6 ống nứa chặt ra từ một cây nứa, mỗi ống có độ dài ngắn khác nhau, mỗi người thổi một ống. Bộ Điêng-Tút thổi một đầu tạo ra những âm thanh trầm bỗng theo 8 điệu nhảy của 12 cô gái trong các lễ hội; sáo Tút Bluông, âm thanh gần giống sáo người Kinh, gồm một lỗ thổi và một lỗ bấm; Đin pư là một ống tre rỗng 2 đầu, dài 60cm, đeo trước bụng, dùng tay vỗ vào hai đầu ống tạo ra âm thanh bập bùng, huyền ảo; trong khi đó, Kun là ống nứa dài hơn, chỉ trống một đầu có 6 lỗ dùng để thổi.
Người phụ nữ Ve, T’riềng còn có nhạc cụ Cherơ ghép bằng hai ống nứa, thường thổi để hò hẹn với người yêu. Gần đây, tại xã Đắc Ốc, huyện Nam Giang (Quảng Nam) người viết đã chứng kiến một nghệ nhân thổi sáo T’lê bằng một ống trúc dài khoảng 1,2 mét trống cả 2 đầu, chỉ có 1 lỗ ở giữa để thổi, một đầu ống người thổi dùng tay để điều chỉnh độc cao thấp của âm thanh. Cây T’lê thường thổi trong lúc nhàn tản, vui vẻ trong làng, nhất là sau khi thu hoạch xong mùa lúa rẫy và các dịp lễ hội...
Người Bh’noong cũng có rất nhiều nhạc cụ bằng tre như bộ sáo gió gồm từ 5 đến 11 ống nứa to nhỏ, dài ngắn khác nhau, rỗng 2 đầu. Bộ sáo gió treo ở chòi giữ rẫy tạo ra những hòa âm phong phú khi có gió thổi vào, đôi khi còn để đuổi thú rừng vào phá hoa màu; loại sáo 3 lỗ có tên Klê, giống sáo Tơ rét của người Cơ tu; đàn Broh của người Bh’noong giống đàn Brốc-ngheng của người Ca Dong ở Trà My cũng có thân là một ống nứa có gắn các mẫu gỗ ở hai đầu để mắc 2 dây đàn...
Người Xê Đăng và Ca Dong có đàn K’lôngput với nhiều ống nứa ghép song song. Nhưng nổi tiếng nhất có lẽ là bộ đàn nước với nhiều ống tre, nứa, le kết lại theo một hệ thống, gõ vào nhau tạo ra âm thanh và lực gõ được tạo nên do nước chảy tác động vào những sợi dây. Khi các sợi dây dao động, kéo theo sự va chạm của các ống tre, nứa có đặc tính, độ dài ngắn khác nhau, tạo ra các hòa âm độc đáo. Đàn nước của người dân tộc Xê đăng đã được các nhà nghiên cứu âm nhạc đánh giá là một nhạc cụ độc đáo...
* Tre trong chuyện cổ tích dân tộc thiểu số
Có lẽ ít có chuyện cổ tích, thần thoại nào của người dân tộc thiểu số Trường Sơn mà thiếu vắng hình bóng của cây tre, cây nứa, cái gùi bằng tre, ống rượu, máng nước, cơm, cháo thổi trong ống tre, cây chông tre bẫy thú, cọc tre đóng vào thân cây cao để trèo... mà trong đời sống hàng ngày họ vẫn sử dụng.
Trong Sự tích đồi Cói của người Bh’noong, có người cha mang những ống tre cơm đi tìm con, có cây sáo trúc Tút Bluông người con thổi lên với tiếng u buồn. Trong Sự tích họ Arâl của người Cơtu, có chuyện nấu con heo đất trong ống tre, heo đã tan ra nước mà tiếng kêu vẫn còn. Chuyện Lúa về kho của người T’riêng, máng tre làm bằng cây lồ ô để dẫn lúa từ rẫy về. Lúa chạy trên máng tre về kho vẫn nói chuyện rì rào. Trong dòng thác Tiên của dân tộc Cor, nàng Non cầm chiếc gậy thần bóng loáng bằng tre lồ ô của Thần Núi, vượt qua bao hiểm trở để tìm nước cho dân làng trong mùa hạn hán. Cây gậy lồ ô như một “cây gậy dẫn đường” giúp nàng Non vượt qua mọi hiểm nguy và trắc trở để tìm nguồn nước cứu sống mùa màng, đem lại hạnh phúc cho dân làng... Chuyện cổ Con Calang-ngó của dân tộc Ve, tre là những cây chông nhọn đóng vào cây cổ thụ để người chồng trèo lên cứu cô vợ xinh đẹp khỏi nanh vuốt của cú mèo hung ác. Trong khi đó, chuyện Cuộc phiêu lưu của chàng Rơ Rum của ngươì Xê đăng, thì cây chông tre, tấm liếp bằng tre, mũi tên bằng tre trở thành vũ khí tiêu diệt con voi một ngà hung dữ mang lại bình yên cho dân làng...
Tóm lại, cũng như nhiều nơi khác, cây tre giữ vị trí quan trọng trong đời sống của các dân tộc Trường Sơn. Đặc biệt, trong kho tàng văn học dân gian, hình ảnh cây tre cây nứa, cây lồ ô xuất hiện đều đặn và mang tính ẩn dụ cao. Trong giai đoạn chiến tranh chống Mỹ, bài hát Cô gái vót chông là nổi tiếng, là một ví dụ cho thấy cây tre cũng được đồng bào các dân tộc Trường Sơn sử dụng làm vũ khí cùng quân dân ta đánh thắng kẻ thù. Theo giáo sư nông học Bùi Huy Đáp, kết quả nghiên cứu khảo cổ tại các di chỉ khảo cổ khu vực Gio Linh, Quảng Trị thời kỳ văn hóa Hòa Bình từ trên 7 nghìn năm về trước cho thấy hệ thống thủy lợi tự chảy Giếng Kinh (thuộc thời kỳ Đá mới) đã được người bản địa dùng các cây luồng (một loại tre mỏng ở Trường Sơn hiện nay) nối lại để dẫn nước vào các ruộng lúa. Điều này càng khẳng định cây tre đã gắn bó từ khá sớm với đồng bào các dân tộc Việt Nam...
TNO
Bình luận (0)