Trên thực tế, không ít trường hợp pháp luật có các quy định như “phải có trang thiết bị phù hợp”, “phải có đội ngũ nhân sự đáp ứng được yêu cầu”... nhưng lại không giải thích thế nào là “phù hợp” thế nào là “đáp ứng được yêu cầu”…
Những quy định chung chung, định tính, không rõ ràng này là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng. Những kẽ hở pháp luật dẫn đến tham nhũng như vậy không phải là hiếm trong hệ thống pháp luật VN. Trong nhiều vụ án tham nhũng thời gian qua, kết luận của Thanh tra Chính phủ, của Kiểm toán Nhà nước nhiều lần khẳng định: những kẽ hở trong các quy định của pháp luật chính là một phần nguyên nhân dẫn đến những vụ án tham nhũng.
Điều đáng nói là đôi khi những quy định đó đã được cài cắm một cách cố tình vào các văn bản pháp luật bởi chính những người soạn thảo. Một phần nguyên nhân là cán bộ soạn thảo đồng thời cũng sẽ là người thực thi chúng trong tương lai.
Tình trạng tham nhũng chính sách, cố tình cài cắm những quy định có lợi cho mình vào pháp luật khiến việc chống tham nhũng ở VN trở nên vô cùng khó khăn. Nó là một phần nguyên nhân của tình trạng luôn “đúng quy trình” nhưng thực tế lại có những kết quả vô lý, bởi bản thân quy trình đó đã được thiết kế để tạo kẽ hở cho tham nhũng.
Để hạn chế tình trạng này, ngoài việc đăng tải công khai, lấy ý kiến rộng rãi đối tượng chịu tác động, thì cần thiết phải hoàn thiện cơ chế kiểm soát nguy cơ cài cắm trong xây dựng pháp luật, xây dựng quy trình quản lý.
Theo kinh nghiệm của Hàn Quốc, cách tốt nhất để chống cài cắm chính sách là có một bộ phận chuyên môn độc lập làm việc này. Các dự thảo văn bản pháp luật phải được gửi cho đơn vị này để lấy ý kiến trước khi trình ký ban hành. Việc góp ý của đơn vị này tập trung vào các nguy cơ tham nhũng, tiêu cực, cài cắm chính sách trong dự thảo được lấy ý kiến đó. Đơn vị này cần được đặt độc lập tại một cơ quan ít tham gia vào quản lý nhà nước như Ủy ban Kiểm tra , Ban Nội chính hoặc Kiểm toán Nhà nước.
Nhiệm vụ của đơn vị này thuần túy là nghiên cứu quy định của dự thảo pháp luật, chỉ ra những điểm chưa minh bạch, chưa rõ ràng, định tính, trao quyền quá mức cho cán bộ thực thi trong việc diễn giải pháp luật. Phương pháp làm việc có thể tiến tới chuẩn hóa như cắm cờ đỏ, cờ vàng, cờ xanh tương ứng với các quy định có nguy cơ tham nhũng cao, nguy cơ trung bình, nguy cơ thấp. Việc chuẩn hóa này có thể giúp quan sát được diễn biến của chất lượng văn bản pháp luật của VN qua thời gian, cũng như so sánh được giữa các bộ ngành, hoặc các tiêu chí khác.
Đơn vị này không có quyền dừng một dự thảo, nhưng ý kiến của họ phải được báo cáo một cách trung thực, đầy đủ lên cơ quan có thầm quyền ban hành văn bản đó và phải được công khai trước công luận. Chắc chắn, áp lực dư luận, áp lực chính trị sẽ không cho phép một cá nhân có thẩm quyền đặt bút ký vào một dự thảo còn quá nhiều những “cờ đỏ”.
Bình luận (0)