Hồi chiến tranh, có cả năm trời ngày nào tôi cũng bơi lội trên sông Vàm Cỏ Đông, đoạn thượng nguồn dòng sông này là biên giới tự nhiên giữa Việt Nam và Campuchia. Đơn giản, tôi bơi để bứt lục bình về chấm mắm kho ăn cùng mấy anh em cho đỡ… xót ruột.
Sông Vàm Cỏ Đông đoạn chảy qua Tây Ninh - Ảnh: Giang Phương |
Gần như người Việt mình những năm tháng ấy đều thuộc bài hát Vàm Cỏ Đông, nhạc Trương Quang Lục, lời thơ Hoài Vũ. Hóa ra, hai ông này tuy kẻ Bắc người Nam nhưng đều là dân… Quảng Ngãi đồng hương với tôi. Hoài Vũ là nhà thơ đã vào chiến trường Nam bộ từ khá sớm, nên quá rành sông Vàm Cỏ Đông, nhất là đoạn sông chảy qua Long An - còn gọi là miền Hạ. Nhưng còn tôi, trước khi biết sông Vàm Cỏ Đông và thường xuyên bơi lội trên sông này, tôi đã từng vượt qua sông Vàm Cỏ… Tây. Sông Vàm Cỏ Tây - gần như anh em sinh đôi với sông Vàm Cỏ Đông - nhưng ít được biết hơn, vì không thấy có bài nhạc nổi tiếng nào về dòng sông này. Thế mới biết, thơ và nhạc lợi hại cỡ nào!
Sông Vàm Cỏ Đông đoạn chảy qua cầu Mỹ Lợi nghe nói nước rất sâu, tới 30 - 40 m. Con sông nước thật trong, theo thủy triều có nước lớn nước ròng, tôm cá trên sông hơi bị nhiều, quý nhất là tôm càng xanh. Những đêm trong rừng ven sông Vàm Cỏ Đông, nấu ấm trà nghe bạn hiền Tư Xuân kể chuyện phóng chĩa trên sông bắt tôm càng xanh mà mê luôn đi. Hóa ra, quê Tư Xuân ở Cần Đước, sát Cần Giuộc, con sông Vàm Cỏ đoạn chảy qua quê Tư Xuân là đoạn sông rất rộng và sâu. Chảy tới cửa Soài Rạp thì không chỉ có tôm càng xanh mà còn có cá dứa. Đây là loài cá ngon có hạng trên sông nước Chín Rồng. Tôi vốn yêu các con sông, càng yêu hơn tôm cá dưới sông, đúng như cách yêu của người nông dân. Nhìn ngắm dòng sông đẹp, đã thấy yêu. Nhưng nếu được ăn những con cá con tôm ngon dưới dòng sông ấy, thì tình yêu càng đậm đà, thấm đẫm hương vị… ẩm thực, và khiến người yêu nhớ rất lâu, có khi là cả cuộc đời.
Năm 1973, sau Hiệp định Paris, trên đường về lại chiến khu từ địa hình nam lộ 4, tôi đã có một buổi chiều tà vượt sông Vàm Cỏ Tây. Khi tới bờ sông lau sậy ken dày, nhìn trên sông thấy tàu tuần duyên của đối phương chạy ì xèo, nghe đại liên quất rào rào lên ngọn cây trâm bờ trước mặt, tôi để ý thấy một ngọn cờ xanh - đỏ của Mặt trận mình đang tung bay trên ngọn cây trâm. Hóa ra, ngọn cờ ấy là đích nhắm bắn của khẩu đại liên trên tàu tuần duyên. Đạn vãi như mưa song ngọn cờ vẫn… tung bay trong gió, chả hề hấn gì. Sau khi vượt sông an toàn, về lại chiến khu tôi đã viết được bài thơ Ngọn cờ bên sông Vàm Cỏ Tây, một bài thơ giàu xúc cảm, ẩn chứa niềm tự hào. Tôi chỉ là người kháng chiến cũ, và niềm tự hào khiêm nhường ấy tôi còn giữ tới hơn bốn mươi năm sau.
Hồi chúng tôi còn nhỏ, chính văn hào Ilya Ehrenburg - qua bài viết bất hủ Lòng yêu nước của mình, đã dạy chúng tôi biết yêu nước một cách cụ thể mà thấm thía như vậy: “Lòng yêu nước ban đầu là yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu con phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh...” (Thép Mới dịch).
Bây giờ, đôi khi nhớ lại, tôi lại một mình nghêu ngao “Vàm Cỏ Đông ơi Vàm Cỏ… Tây”. Vì tôi yêu cả hai dòng sông Vàm Cỏ, hai dòng sông sinh đôi mà tôi có may mắn được lội qua.
Bình luận (0)