Ban đầu Tiểu luận về dân Bắc kỳ xuất hiện ở dạng các bài viết tiểu luận trên Revue Indo-Chinoise (tạp chí Đông Dương). Sau này, khi những năm tháng cuối đời phải sống trong cảnh cô đơn buồn tẻ ở Đồ Sơn (Hải Phòng), Gustave Dumoutier tự tuyển chọn và sắp xếp lại theo một hệ thống bài bản và tác phẩm từng được nhà in Viễn Đông xuất bản lần đầu tiên vào năm 1908.
Như một sự bổ khuyết cho công trình nghiên cứu nổi tiếng Vùng đất An Nam, nghiên cứu tổ chức chính trị và xã hội của người An Nam của Éliacin Luro (1878), Tiểu luận về dân Bắc kỳ đi sâu vào những vấn đề lớn liên quan tới nếp sống thường nhật của người dân Bắc kỳ cuối thế kỷ 19 về xã hội (tổ chức làng xã, việc xét xử, việc quân); gia đình (sinh con, cưới hỏi, vợ lẽ - nàng hầu, tang ma); trò chơi, thói quen và nghề nghiệp (ca kỹ và đào kép, trò đỏ đen, chơi bài lá, ăn mày, y phục); thực phẩm (tục ăn đất, cỗ cúng, cỗ làng, đám ma, mừng thọ, tín ngưỡng dân gian liên quan đến bữa ăn); y học dân gian (thầy lang, hiệu thuốc); mê tín (thầy phù thủy và bói toán, hậu vận, cốt tướng, diện tướng, giải quẻ).
Trong sách, câu chuyện thằng mõ làng được miêu tả sống động, thú vị với nhiệm vụ “đi khắp làng trên xóm dưới rao các quyết định của hương hội” và đội tuần phiên (có 12 hoặc 20 người) đóng tại các điếm canh đầu làng để đảm bảo an ninh trật tự. Nhằm gây sự chú ý, mõ làng lấy chiếc dùi gõ trên một dụng cụ phát âm bằng gỗ rỗng ruột, cầm trong lòng bàn tay. Đặc biệt, người đứng đầu tuần phiên được cấp một cái tù và làm bằng sừng trâu phát ra những tiếng khàn khàn ù ù để... báo động. Mỗi tuần đinh trang bị một gậy tầm vông nhọn, có cuốn sợi dây thừng, dùng để trói kẻ trộm và tội phạm.
Thời đó, quân đội An Nam gồm lính vệ và lính cơ. Đội lính vệ là lực lượng binh sĩ tuyển mộ đặc biệt ở các tỉnh từ Bình Thuận tới Nghệ An chỉ phục vụ tại Huế, đặt dưới quyền chỉ huy của một vị quan đô thống của nhà vua. Đội lính vệ gồm 9 sư đoàn, chỉ huy sư đoàn gọi là thống chế, là quan nhất hoặc nhị phẩm. Trung đội do chánh lãnh binh chỉ huy, có một phó lãnh binh phụ tá, rồi tới các cấp: chánh vệ úy, phó vệ úy; chánh quản cơ, phó quản cơ; chánh hiệp quản, phó hiệp quản và cuối cùng là những chỉ huy cấp dưới: chánh đội trưởng, phó đội trưởng, cai, đội và ngũ trưởng. Đội lính cơ có cùng ngạch trật, nhưng có bao nhiêu tỉnh thì có bấy nhiêu lữ đoàn. Mỗi lữ đoàn, tùy theo tầm quan trọng, do đề đốc hay lãnh binh chỉ huy. Việc xét xử, dân An Nam bị đặt dưới nhiều cấp bậc, tuy nhiên hình phạt thì có 5 loại: roi, trượng, khổ sai, biệt xứ và tử hình.
Cuốn sách tiết lộ về nhân vật đặc biệt đã đem vào Bắc kỳ nghệ thuật thêu và nghề làm ô, đó là Lê Công Hành. Ông sinh ở làng Thượng Phúc (nay thuộc Hà Nội) - sau này trở thành làng thợ thêu, còn làng Hiến Tương bên cạnh độc quyền nghề làm ô, hiện các phố Hàng Trống, phố Bảo Khánh và phố Nhà Chung có đi qua phần đất này. Gustave Dumoutier miêu tả: “Loại ô dùng trong các buổi lễ bái gọi là lọng, làm bằng một khung tre, bồi giấy có vẽ hình và sơn phết... Lọng vàng dành cho vua, quan lại dùng lọng xanh. Các “tứ trụ triều đình”: thượng thư, đô đốc, tổng đốc, đề đốc và thượng quan nhất, nhị phẩm có quyền đi bốn lọng. Đi hai lọng là tào chánh sứ, án sát sứ và quan tam, tứ phẩm. Các ngũ phẩm: tri phủ, tri huyện chỉ có quyền dùng một lọng. Quan lục, thất phẩm vẫn có lọng nhưng phía trên lọng không có cái chóp. Giới bình dân An Nam không thể sắm lọng, món hàng xa xỉ bị cấm nên đành dùng ô”.
Tiểu luận về dân Bắc kỳ vừa ra mắt với bản dịch và phần hiệu đính rõ ràng của dịch giả Vũ Lưu Xuân, do Omega và NXB Hà Nội ấn hành.
Bình luận (0)