Theo số liệu của Tổng cục Hải Quan, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng đá quý, kim loại quý và sản phẩm năm 2019 là 2,1 tỉ USD (tăng 231,2% so với cùng kỳ năm 2018) và năm 2020 là 2,6 tỉ USD, tập trung chủ yếu mặt hàng đồ kỹ nghệ và các bộ phận của đồ kỹ nghệ bằng vàng, đã hoặc chưa mạ hoặc dát phủ kim loại quý, có hàm lượng vàng dưới 95% (năm 2020 khoảng 2,1 tỉ USD).
Về chính sách thuế xuất khẩu, mặt hàng vàng (kể cả vàng mạ bạch kim) chưa gia công hoặc ở dạng bán thành phẩm, hoặc ở dạng bột có mức thuế suất thuế xuất khẩu là 2%. Mức thuế suất đối với sản phẩm trang sức bằng kim loại quý hoặc kim loại dát phủ kim loại quý; đồ kỹ nghệ vàng bạc bằng kim loại quý hoặc dát kim loại quý… có thuế suất bằng 0%. Riêng những sản phẩm kim loại quý hoặc dát kim loại quý có hàm lượng vàng từ 95% trở lên có thuế suất 2%.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, hiện nay các doanh nghiệp xuất khẩu chủ yếu khai báo mặt hàng xuất khẩu là vàng mỹ nghệ các loại, hàm lượng vàng dưới 95%, mã hàng 7114.19.00.90, thuế xuất khẩu là 0%. Tiêu chuẩn giữa các mặt hàng có thuế suất 0% và 2% rất khó phân biệt nên việc tính thuế đều căn cứ theo khai báo của doanh nghiệp, cơ quan hải quan không có đủ cơ sở để kiểm tra. Các công ty thực hiện giám định chất lượng vàng trước khi xuất khẩu đều thể hiện hàm lượng vàng dưới 95%, các chứng từ giám định lại của đối tác nước ngoài đều dưới 95%.
Để khắc phục những vướng mắc trên, Bộ Tài chính trình Chính phủ thống nhất chung một mức thuế suất đối với mặt hàng vàng, không phân biệt theo hàm lượng vàng như hiện nay, tăng thuế xuất khẩu các mặt hàng vàng có hàm lượng vàng dưới 95% từ 0% lên 2% và gộp dòng theo tên gọi mặt hàng theo đúng Danh mục thuế quan hài hòa ASEAN (AHTN) mà Việt Nam đã ký kết, không chia cụ thể theo hàm lượng vàng để đơn giản hóa biểu thuế.
Bình luận (0)