Ai ăn chè bà Chỉ?

Mùa hè sang khiến tôi bỗng dưng nhớ lại thời còn học trung học ở Trường Trần Quý Cáp (Hội An, Quảng Nam).

Đời học sinh xa nhà thời ấy thật nghèo nhưng vui kỳ lạ. Có những con người mà nếu ta lãng quên thì sẽ mất đi một phần quá khứ của đời mình. Chẳng hạn như bà Chỉ, một bà cụ bán chè đã ra người thiên cổ...
Năm đệ tứ, tôi được nhà trường cấp cho học bổng toàn phần 240 đồng và tặng một phần thưởng học sinh xuất sắc toàn trường. Trong lễ phát thưởng, thầy chủ lễ gọi đó là phần thưởng đặc biệt của ông Bộ trưởng Bộ Giáo dục gửi tặng.
Tôi nghe vậy thì biết vậy, lòng thầm cảm động, không hiểu tại sao ông Bộ trưởng ở tận Sài Gòn mà gửi cái phần thưởng này ra được đến Quảng Nam tặng mình. Đây là lần đầu tiên, thằng học trò nghèo mạt rệp có được một số tiền lớn. Hắn nghĩ đến chuyện phải mời bạn bè ăn một cái chi chi đó. Cái chi chi đó kêu bằng là… chè bà Chỉ.
Bà Chỉ là một người danh tiếng trong thành phố Hội An mà bá tánh Trường trung học Trần Quý Cáp đều phải biết. Không ai rõ bà thuộc họ Nguyễn hay họ Ngô, chỉ gọi hai chữ “bà Chỉ” là đủ. Đó là một người phụ nữ lớn tuổi, quanh năm mặc một bộ đồ đen, ăn ở dơ hầy, mắt luôn luôn… toét ghèn!
Một nguồn tin thông thạo cho biết bà Chỉ mỗi tháng chỉ tắm một lần vào đúng giờ Ngọ! Có đứa còn đoan chắc rằng trong suốt ba tháng mùa đông, bà dứt khoát… không tắm! Với bà, nước và xà bông chỉ là những xa xỉ phẩm vô ích trên đời và động từ “tắm rửa” chỉ là từ ngữ có trong từ điển tiếng Việt. Bà Chỉ tích cực chống lại sự tắm rửa như chúng ta tích cực chống vi trùng.
Người phụ nữ ấy chỉ bán mỗi một món chè đậu đen nấu với đường táng - cái món ăn dễ ợt mà tất cả người dân miền Trung đều nấu được. Ấy vậy mà dân nghèo thành thị đang học Trường Trần Quý Cáp đều mê chè bà Chỉ. Mê vì bà nấu đậu đen rất mềm, nước đậm và rất ngọt. Và trên hết, mê vì… giá rẻ. Mỗi chén chè của bà giá chỉ một đồng.
Bà Chỉ luôn tự hào về thương hiệu của mình. Bà ngồi bên lề đường Nguyễn Duy Hiệu, đối diện với nhà máy đèn do người Pháp để lại. Tài sản của bà chỉ gồm hai chiếc bàn và tám chiếc ghế nhỏ cực thấp. Bà “ra hàng” đúng 10 giờ sáng, “dọn hàng” đúng 5 giờ chiều. Đứa nào đến ăn trễ ráng chịu, bà không thèm bán. Nói chung, bà là một phụ nữ bình dân rất hách… xì dầu.
Bà Chỉ bán duy nhất một món chè đậu đen nóng, đứa nào ưng ăn chè lạnh cứ tự nhiên đi… chỗ khác mà ăn. Mỗi chén chè của bà bao gồm hai thứ; phía trên là nước lõng bõng, ở dưới có khoảng vài chục hạt đậu đen nấu nhừ.
Đậu nhừ đến nỗi chưa vào tới miệng đã tan ra thành bột. Nó ngọt một cách ma quái, phù hợp tì vị của người Quảng Nam nói chung và học sinh nghèo Trần Quý Cáp nói riêng một cách kịch liệt. Gần như đứa nào học Trần Quý Cáp cũng biết đến uy danh bà Chỉ, cũng trở thành “Thượng đế” của bà. Tuy vậy, bà coi “Thượng đế” chẳng ra giống ôn gì, lúc nào cũng sẵn sàng rầy rà và sinh sự.
Cái gì của bà Chỉ xem ra cũng tạm được trừ… hai bàn tay. Hai bàn tay bà cứ y như mới rút từ trong đống than ra, mười đầu móng tay đen xỉn. Mùa đông, bà vừa cầm chén múc chè, vừa ho hen. Thỉnh thoảng, bà khịt mũi một cái rồi quẹt nhanh bàn tay mặt của mình vào… ống quần. May mắn, bà cầm chén chè bằng tay trái mà múc chè bằng tay mặt. Cái đó là bằng chứng hùng hồn nói lên rằng bà Chỉ cũng có ý thức giữ gìn vệ sinh và tôn trọng khách ăn chè. Có lẽ điều này còn cho biết vi trùng khó có thể lây lan qua cán vá bởi cán vá của bà dài hơn nửa thước tây!
Nói tóm lại, bà có nhã ý bảo vệ an toàn thực phẩm nhưng nhận thức có hạn chế nên hay khịt mũi mà thôi. Cũng may cho bà, thời ấy chưa có thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm nên không ai đến khám xét hàng của bà. Do vậy, quán hàng đó “thọ” rất lâu!
Bà Chỉ ít nói, có lẽ là một phụ nữ tiết kiệm lời lẽ bậc nhất tỉnh Quảng Nam. Khi tự xưng về mình, bà Chỉ xưng là “họ”. Khi gọi các thượng đế khách hàng, bà Chỉ gọi “mấy người”, dù rằng chỉ có một người ngồi ăn. “Mấy người đưa năm đồng, làm răng họ có bốn đồng thối lại đây?” - bà Chỉ càm ràm.
Khách ăn chè bà Chỉ toàn là con dân nghèo Trường Trần Quý Cáp. Đám nhà giàu, nhà sang có ăn chè thì đã lên quán bà Sỏ, có ghiền phở thì đã tới phở đình Ông Voi trên đường Lê Lợi hay quán Mộng Thu - nói lái chữ… mụ Thông. Dân giàu sang chê quán bà Chỉ dơ; bà Chỉ cũng chê dân giàu sang không biết ăn chè. “Cái đồ yêu nớ mà biết ăn chè chi? Mà chè răng lại bán tới hai đồng? Họ bán một đồng đây mà còn trậm trầy trậm trật, đừng nói hai đồng” - bà bình luận. Bà Chỉ chuyên bán cho con nhà nghèo, lạc cha xa mẹ, khố rách áo ôm, ba năm mới được mấy đồng rủng rỉnh trong túi cỡ như… tui.
Đứa nào vác mặt tới ăn chè, cứ khôn hồn lặng lẽ ngồi xuống cái ghế thấp chũn hoặc nếu chê ghế thì ngồi bệt xuống đất, ăn ngồi, ăn đứng hoặc nằm lăn bên vệ đường mà ăn cũng không sao. Bà Chỉ không buồn hỏi, lặng lẽ múc một chén chè. Ăn xong, con nhà nghèo móc tiền trả rồi cứ việc ra đi, chẳng ai nói với ai một lời vàng đá. Bà Chỉ ghét nhất là câu: “Một đồng hả bà?”. Đứa nào ngu ngốc (hoặc nhà quê) hỏi bà như vậy, bà cự ngay: “Một đồng chớ mấy? Hỏi chi hỏi hoài, điếc lỗ tai họ quá”. Thật là một “thương hiệu” cực kỳ văn minh thương nghiệp và rất kiệm lời!
Tôi đãi đám bạn ăn chè vào một ngày cuối tháng 5.1963. Trai có, gái có, cùng học một lớp nên ồn ào như… cái chợ nhỏ. Bà Chỉ lặng lẽ bán chè, múc chưa kịp mười chén thì đã có đứa háu ăn đưa chén vào đề nghị bà… bán tiếp chén thứ hai. Bà Chỉ cự: “Làm cái chi mà ăn mau rứa? Để họ múc cho kịp chớ. Mấy người đòi ăn nữa, họ không bán đâu”.
“Họ” là tiếng tự xưng của bà Chỉ, cũng như nhà vua tự xưng mình là “trẫm” trước mặt bá quan vậy. Nghe bà cự, thằng háu ăn ồn ào ngớ ra, không dám thò chén tới. Chỉ tới khi bà chịu bán qua tua thứ hai thì con ma đói này mới dám đưa chén, cười cầu tài. Thiệt quê hết chỗ nói!
Tóm lại, mỗi đứa ăn hai chén chè đậu đen nóng, mồ hôi mồ kê vã ra cũng kha khá. Ấy gọi là ăn mừng rửa học bổng toàn phần. Ăn xong, cả bọn qua câu lạc bộ âm nhạc nghe thầy Lê Chấn Quang chơi piano moderne. Rồi ai về “dinh” nấy, ăn cơm chiều, học bài để đầu tháng 6 thi lấy bằng diplôme.
Bây giờ, bà Chỉ đã ra người thiên cổ. Cuộc sống tiến lên văn minh hiện đại nhưng tìm đâu ra được một bà Chỉ quý hiếm như vậy? Lũ bạn ăn chè ngày đó đã thành ông nội bà nội, ông ngoại bà ngoại, phiêu dạt bốn phương. Từ những chiếc ghế thấp chũn đó, đã có những nhân vật lớn (và to con!) đi vào đời, có đứa thành công, có đứa thất bại.
Nhiều khi, tôi trở lại Hội An, đi qua đường Nguyễn Duy Hiệu, lòng thầm nhớ quán chè bà Chỉ. Bây giờ thì tôi có lúc có cả vài triệu đồng trong túi, nếu còn chè bà Chỉ, tôi phải ăn vài chục chén cho bỏ ghét. Nhưng than ôi, tìm đâu ra giữa thành phố Hội An này một bà Chỉ hồn nhiên, dơ hầy mà bán chè ngon tuyệt trên lề đường năm xưa?
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.