Sáng 14.8, tại phiên họp 25, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về báo cáo tiếp thu, giải trình dự án luật Tài nguyên nước sửa đổi dự kiến sẽ trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp 6 cuối năm nay.
Báo cáo tại phiên họp, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học - Công nghệ - Môi trường Quốc hội (cơ quan thẩm tra) Lê Quang Huy cho biết, liên quan tới đăng ký, cấp phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước, có ý kiến đề nghị quy định cụ thể đối tượng, điều kiện, quy mô phải đăng ký, cấp phép khai thác tài nguyên nước.
Tiếp thu ý kiến, dự thảo luật đã bổ sung 4 điều quy định cụ thể về nguyên tắc cấp phép, đối tượng phải đăng ký, cấp phép khai thác sử dụng nước, điều kiện cấp phép tại các điều từ 53 đến 56.
"Quy mô để làm căn cứ cấp phép sẽ được Chính phủ quy định chi tiết để phù hợp với tính đặc thù của nước luôn biến động theo thời gian và không gian", ông Huy nói.
Khai thác nước ngầm bừa bãi dẫn đến sạt lở
Nêu ý kiến, Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định cho biết, dự thảo luật đã quy định cụ thể các trường hợp không phải đăng ký, cấp phép khai thác, sử dụng nước. Cơ bản, ông đồng ý với các trường hợp không phải đăng ký, cấp phép khai thác, sử dụng nước mặt, song với các trường hợp nước ngầm ông Định đề nghị "cân nhắc".
"Tôi còn nhớ khi tôi làm việc bên Văn phòng Chính phủ, từ thời Phó thủ tướng Trần Đức Lương (nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương - PV) đã rất băn khoăn chuyện nước ngầm", ông Định nói. Theo ông, việc khai thác nước ngầm bừa bãi, không có quản lý gây ảnh hưởng rất lớn.
"Nước ngầm này phải hết sức lưu ý, tôi đề nghị nghiên cứu thêm, phải chặt chẽ hơn", ông Định đề nghị.
Đồng tình với ông Định, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng đề nghị rà soát kỹ quy định về đăng ký, cấp phép sử dụng, khai thác nước cho phù hợp, thống nhất.
Cũng theo ông Tùng, cần quản lý hết sức chặt chẽ với nước ngầm. "Như ĐBSCL khai thác không kiểm soát chặt chẽ, diễn ra khá phổ biến. Đây là lý do dẫn đến sạt lở bờ sông, bờ biển do nước ngầm dưới đất khai thác quá mức", ông Tùng nêu.
"Ngành tài nguyên có ngồi trông coi hết được không?"
Cho ý kiến vào báo cáo, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đề nghị rà soát lại các điều khoản quy định chi tiết để luật hóa những gì có thể luật hóa được.
Ông đề nghị cần phải "tránh chuyện kéo hết quyền hạn các thứ về các bộ". "Chúng ta vẫn nói chuyện phải chống lợi ích nhóm, tiêu cực trong xây dựng pháp luật. Phải rà lại cái này để tránh và hạn chế chuyện xin - cho. Thường bộ nào làm cũng quàng trách nhiệm về cho mình nhưng cuối cùng làm không nổi, lại ảnh hưởng các bên khác", Chủ tịch Quốc hội nói.
Với việc cấp phép khai thác, sử dụng nước, Chủ tịch Quốc hội cho rằng luật đang quản lý chủ yếu bằng giấy phép và đề nghị nên chăng tăng thêm các quy định về tiêu chuẩn, tiêu chí để quản lý, hậu kiểm?
"Tôi nói các đồng chí, nước bao la bể sở thế này, ngành tài nguyên, Chính phủ từ T.Ư, địa phương có ngồi trông coi được hết không? Phải quản lý bằng tiêu chuẩn, quy chuẩn để cho tất cả người dân người ta tham gia vào quản lý, khai thác, sử dụng", Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh.
Chủ tịch Quốc hội cũng nêu rõ, có những giấy phép là cần thiết nhưng dự luật Tài nguyên nước chưa chú trọng tới quy chuẩn, tiêu chuẩn.
"Nếu Bộ TN-MT quy định cái gì thì nên chăng là quy định tiêu chuẩn, quy chuẩn và phối hợp với Bộ KH-CN làm cái này để quản lý", ông đề nghị.
2. Các trường hợp không phải đăng ký, không phải có giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước
a) Khai thác, sử dụng nước cho sinh hoạt của hộ gia đình;
b) Khai thác, sử dụng nước cho các hoạt động văn hóa, tôn giáo, nghiên cứu khoa học, tưới cây và rửa đường phục vụ mục đích công cộng;
c) Khai thác, sử dụng nước biển để sản xuất muối hoặc phục vụ các hoạt động trên biển, đảo;
d) Khai thác, sử dụng nước để phòng cháy, chữa cháy, phục vụ mục đích quốc phòng và an ninh;
đ) Khai thác, sử dụng nước để cấp nước sinh hoạt tại các khu vực trong thời gian xảy ra tình trạng hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn hoặc các sự cố ô nhiễm, dịch bệnh do cấp có thẩm quyền ban hành theo quy định;
e) Khai thác, sử dụng nước biển phục vụ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, nuôi trồng thủy sản trên đất liền với quy mô nhỏ;
g) Khai thác, sử dụng nước mặt, nước dưới đất phục vụ cho các mục đích khác quy định tại điểm b, điểm d với quy mô nhỏ;
h) Công trình ngăn sông, suối, kênh, rạch có quy mô nhỏ với mục đích tạo nguồn, ngăn mặn, tạo cảnh quan.
3. Các trường hợp phải đăng ký khai thác, sử dụng tài nguyên nước
a) Khai thác, sử dụng nước biển phục vụ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, nuôi trồng thủy sản trên đất liền với quy mô vừa;
b) Khai thác, sử dụng nước dưới đất quy định tại điểm a, điểm b, điểm g khoản 1 điều này nằm trong danh mục vùng hạn chế khai thác nước dưới đất do UBND cấp tỉnh công bố;
c) Khai thác, sử dụng nước mặt cho mục đích sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản với quy mô vừa;
d) Sử dụng nước dưới đất tự chảy trong moong khai thác khoáng sản để tuyển quặng mà không gây hạ thấp mực nước dưới đất hoặc bơm hút nước để tháo khô lượng nước tự chảy vào moong khai thác khoáng sản;
đ) Công trình ngăn sông, suối, kênh, rạch có quy mô vừa với mục đích tạo nguồn, ngăn mặn, tạo cảnh quan.
4. Các trường hợp khai thác, sử dụng tài nguyên nước không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2 điều này phải có giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước.
(Điều 53 dự thảo luật Tài nguyên nước sửa đổi)
Bình luận (0)