* Tỷ lệ tốt nghiệp THPT là 98,34%
Chuyển biến không rõ rệt
Môn tiếng Anh có điểm thấp nhất và tiếp tục gây thất vọng khi được nhà nước và gia đình ngày càng quan tâm, đầu tư. Ông chia sẻ ra sao về kết quả có vẻ như mâu thuẫn thực tế này?
Nhìn 3 năm gần đây thì môn tiếng Anh cũng đã có kết quả tăng từng năm, tuy chưa được như mong muốn vì sự chuyển biến không rõ rệt. Ví dụ, nếu như năm 2018 điểm trung bình môn này là 3,91 thì năm 2019 tăng lên 4,36, năm nay tăng thêm một chút là 4,58 điểm.
Năm nay, số thí sinh (TS) đạt điểm dưới trung bình là 472.990 (tỷ lệ 63,13%). Năm 2018: 78,22%; năm 2019: 68,75%.
Ở những địa phương mà cả nhà trường và gia đình có sự quan tâm, đầu tư thì kết quả có khác biệt. Ví dụ, năm nay, TP.HCM tiếp tục dẫn đầu về môn ngoại ngữ với điểm trung bình gần 5,9 điểm, cao hơn năm ngoái, tiếp đến là Hà Nội và các tỉnh, thành khác như: Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Nam Định và Hải Phòng. 5 địa phương dẫn đầu không thay đổi thứ hạng so với năm ngoái. Nếu chỉ tính điểm 10 môn ngoại ngữ, Hà Nội dẫn đầu với 95 TS, TP.HCM có 52 TS.
|
Ở chiều ngược lại, có 15 địa phương có kết quả thi tiếng Anh trung bình dưới 4 điểm. Những địa phương ở nhóm thấp nhất năm nay cũng không gây bất ngờ, gồm các tỉnh miền núi phía bắc và Tây nguyên. Cụ thể là Hà Giang, Sơn La, Hòa Bình, Cao Bằng, Bắc Kạn, Điện Biên, Tuyên Quang, Hậu Giang, Đắk Lắk, Đắk Nông… Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận là kết quả môn tiếng Anh năm nay, điểm trung bình của địa phương thấp nhất cũng là hơn 3,2.
Một môn khác là lịch sử có kết quả vẫn thấp, chỉ sau môn tiếng Anh, dù đề thi năm nay được đánh giá là dễ hơn?
Năm nay điểm thi môn lịch sử có nhích hơn mọi năm. Năm 2019 điểm trung bình là 4,3. Năm nay điểm trung bình là 5,19; số TS đạt điểm dưới trung bình là 260.074 (chiếm tỷ lệ 46,95%), năm trước tỷ lệ này là hơn 70%.
Thống kê cho thấy, nguyên nhân điểm môn lịch sử thấp là nhiều TS chọn môn lịch sử thi chỉ để đủ điểm xét tốt nghiệp. Mặc dù tỷ lệ TS chọn bài thi tổ hợp khoa học xã hội để dự thi trong đó có môn thành phần là môn lịch sử cao hơn môn khoa học tự nhiên, nhưng mục tiêu của sự lựa chọn này là nhằm vào hai môn còn lại trong tổ hợp là giáo dục công dân và địa lý. Môn giáo dục công dân có nhiều câu hỏi gần gũi với cuộc sống của TS, dễ nhớ, dễ có điểm; môn địa lý thì được sử dụng Atlat... Thực tế cũng cho thấy đây là hai môn mấy năm gần đây điểm thi cao.
Phân tích phổ điểm cho thấy những TS chọn môn lịch sử là một trong những môn xét tuyển vào ĐH đều đạt điểm 5 trở lên.
Điểm trung bình các môn thi cao hơn những năm trướcNhìn vào phổ điểm năm nay ở hầu hết các môn, thấy rằng phía trái phổ điểm có độ dốc thấp. Nghĩa là số TS đạt mức điểm tương đối sát nhau không chênh lệch quá lớn.
Điểm trung bình các môn thi cao hơn so với những năm trước. Nguyên nhân là ma trận đề thi giống như đề tham khảo đã được công bố trước đó; chương trình học được tinh giản do ảnh hưởng của dịch Covid-19; kiểm tra kiến thức cơ bản của học sinh; đề thi đã giảm độ khó. Phù hợp với mục tiêu xét tốt nghiệp.
Mức độ phân hóa cũng vẫn đảm bảo và đạt tốt hơn năm trước. Số lượng điểm 9, 10 vừa phải, không có tình trạng “mưa điểm 10”. Điểm dưới trung bình giảm hơn năm 2019. Điều này tạo thuận lợi cho việc xét tốt nghiệp.
Bên phải của phổ điểm có độ dốc rất lớn, thể hiện sự phân hóa rõ trong kết quả thi. Các môn đều có điểm tuyệt đối, kể cả môn ngữ văn, vài năm gần đây không có điểm 10 thì năm nay cũng đã có. Sự phân hóa này đáp ứng được mục tiêu của xét tuyển ĐH và giáo dục nghề nghiệp.
|
Có nơi vẫn “vênh” giữa điểm thi và điểm học bạ
Kỳ thi năm nay, điểm mới mà lần đầu tiên Bộ GD-ĐT áp dụng là đối sánh điểm thi với kết quả học bạ của học sinh. Vậy kết quả đối sánh này ra sao?
Bộ chủ trương phải đánh giá tổng thể cả điểm thi và điểm trung bình trong quá trình học tập. Việc đối sánh Bộ sẽ tính tổng thể, không tính riêng cho từng môn, theo cách thức so sánh giữa điểm trung bình các môn thi và kết quả học bạ trung bình lớp 12 của học sinh để xem độ tương thích như thế nào.
Ví dụ, TS chọn bài thi khoa học tự nhiên, sẽ tính điểm trung bình điểm thi các môn toán, lý, hóa, sinh, sau đó so sánh điểm trung bình các môn này ở học bạ lớp 12. Sở dĩ chỉ thực hiện đối sánh với kết quả lớp 12 vì nội dung đề thi chủ yếu chỉ nằm trong chương trình lớp 12.
Kết quả đối sánh sơ bộ cho thấy độ tương thích chung giữa kết quả thi và điểm học bạ của các địa phương trên cả nước là tương đối tốt. Tuy nhiên, vẫn có sự vênh nhất định, có tỉnh khoảng cách vênh rộng hơn một chút..., bình diện chung là chấp nhận được. Tổng thể là các tỉnh khó khăn, miền núi thì khoảng cách này “rộng” hơn, một phần vì tâm lý chung của giáo viên ở đấy muốn “nới tay”. Nhưng dù có sự “vênh” thì cả điểm thi và điểm học bạ của các địa phương này vẫn thấp nhất cả nước.
Ngược lại, có một số địa phương thì ở một số môn điểm thi lại cao hơn điểm học bạ. Bức tranh chung khi phân tích điểm thi năm nay có thể nhận định bước đầu là không có “điểm” nào thực sự bất thường.
|
Mục tiêu và các động thái tiếp theo mà ngành GD-ĐT hướng đến sau khi có kết quả đối sánh này là gì, thưa ông?
Mục đích trước hết là giúp các địa phương nhìn nhận, đối chiếu quá trình tự đánh giá của mình và đánh giá qua kỳ thi quốc gia. Nếu sự chênh lệch giữa điểm thi và điểm học bạ không lớn thì có thể thấy cần tiếp tục phát huy cách đánh giá này. Đối với các địa phương có độ “vênh” nhiều hơn thì cần xem lại quá trình đánh giá trong các nhà trường phải thực chất hơn.
Kết quả đối sánh giữa học bạ và điểm thi của các địa phương sẽ được công khai để xã hội cùng giám sát và đánh giá.
Tỷ lệ tốt nghiệp THPT qua điểm thi năm nay có tăng so với năm trước không, thưa ông?
Năm nay, tỷ lệ tốt nghiệp trên toàn quốc đạt 98,34%, tăng khoảng 4% so với trước.
Không có môn thi nào “trắng” điểm 10Cả nước có 5.812 bài thi đạt điểm 10, trong đó môn giáo dục công dân chiếm tới 4.163 bài, môn ít điểm 10 nhất là ngữ văn chỉ có 2 bài. Không có môn nào “trắng” điểm 10 như năm trước.
Ở chiều ngược lại, cả nước có 1.262 bài thi bị điểm liệt (điểm từ 1 trở xuống). Trong đó, môn tiếng Anh chiếm nhiều nhất với 543 bài; tiếp đến là môn toán với 195 bài; địa lý 133 bài; ngữ văn 119 bài; lịch sử 111 bài; vật lý 39 bài; sinh học 43 bài; giáo dục công dân 41 bài; hóa học 38 bài.
|
Bình luận (0)