(TNO) Họ là kết quả của những cuộc tình éo le giữa thiếu nữ Việt với những người lính lê dương mà quân đội Pháp đưa sang trước năm 1954. Đúng ngày này 60 năm trước, khi tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thất thủ, và sau thời kỳ đoàn tụ, hồi hương năm 1972, họ bỗng dưng trở thành "những đứa con rơi", không bố, sống dưới ánh mắt kỳ thị của xã hội..
|
Kỳ 1: Con lai “vùng chè cọ”
Đến xã Yên Kiện (Đoan Hùng, Phú Thọ) hỏi “xóm con lai”, ai cũng biết. Trong xóm bây giờ, vẫn còn những người đàn ông Việt với vóc dáng khác thường. Cha họ là những người lính Ma Rốc tự nguyện bỏ súng, về với phía Việt Minh, khi bị thực dân Pháp đưa sang Việt Nam tham chiến.
Mối tình hàng binh Ma Rốc
Có hơn 30 người thuộc thế hệ thứ 3 của dòng họ người Ma Rốc neo náu tại Yên Kiện, cách Hà Nội khoảng 127 km và thị trấn Đoan Hùng (Phú Thọ) với những cái tên thường gọi như Bình “tây”, Đường “tây”, Hùng “tây”...
|
Tìm đến ngôi nhà cấp 4, gặp ông Lê Văn Bình mới biết ông là "mẫu hiện sinh" của đời con lai thứ nhất, giữa một phụ nữ Việt Nam có tên Lê Thị Mùi và chàng trai Mzid Ben Ali, quốc tịch Ma Rốc.
Ông Bình kể lại chuyện đời mình từ những ký ức mà cha ông vẫn còn nhớ được: Trước 1954, cha ông tham dự lễ hội ném tuyết tại Ma Rốc và bị một nhóm người bịt mắt bắt đi, đưa lên máy bay. Khi người ta mở băng bịt mắt thì cha ông đã thấy mình ở nơi ì oàng tiếng súng, xa thẳm và chập chùng núi.
Sau thời gian bị khoác áo lính, Mazid Ben Ali tìm hiểu và được biết mình đang ở chiến trường Điện Biên Phủ. Thời gian có mặt của Mazid Ben Ali ở chiến trường Điện Biên Phủ là cuối năm 1953.
Nằm hầm, ăn đồ hộp từ tiếp tế, ông Mazid Ben Ali nhận thấy mình đang tham gia một cuộc chiến tranh phi nghĩa. Một phần muốn bàn tay mình không nhuốm máu khi bắn giết người vô tội, phần muốn mình không bỏ xác tại chiến địa vì "mẫu quốc" mà ông cũng chẳng "yêu thương" gì, nên ông đã quyết định đầu hàng.
Một đêm giáp Tết năm 1953, lợi dụng lúc tối trời, cùng với một số người khác, ông Mazid Ben Ali đào tẩu, được Việt Minh tiếp nhận.
Ông Mazid Ben Ali và những người bạn hàng binh sau đó được đưa về vùng Ba Vì (Hà Nội ngày nay) và được bố trí làm việc tại Nông trường Việt - Phi 1, chuyên sản xuất chè.
Cũng tại đây, ông có tình cảm với cô thanh niên xung phong có tên Lê Thị Mùi. Cô Mùi ngày ấy vốn là một người không rõ gốc tích, đi ở đợ tại Hải Phòng, vào thanh niên xung phong và lên với Nông trường Việt - Phi 1 theo sự điều động.
|
Ngày ấy, gặp Mazid Ben Ali, với ngoại hình của ông, cô Mùi không mấy ấn tượng. Nhưng được tổ chức vun vén và tác động nên cô Mùi đã lấy ông. Hai năm sau, cô Mùi đã sinh hạ cho ông một cậu con trai được chồng đặt tên là Mohamet Ben Larit (Lê Văn Bình sau này).
Từ cuộc hôn phối bất đồng ngôn ngữ này, các em trai có tên Mohamet Ben Barama (Lê Văn Chiến), Mohamet Ben Aptala (Lê Văn Đường) lần lượt được ra đời.
Ông Bình nhớ lại: "Gia đình tôi sống hạnh phúc, mặc dù cha tôi kiệm lời và ít biết tiếng Việt. Năm 1968, Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, để giữ an toàn cho những hàng binh, người ta chuyển gia đình tôi lên xã Việt Cường (Yên Bái), thành lập Nông trường Việt - Phi 2".
Gian khó mưu sinh
Ngày 23.8.1968, ông Mazid Ben Ali lâm bệnh nặng và qua đời. “Nhà tôi ở chỉ cách bệnh viện một quãng sông Hồng, nhưng lênh láng ngầu đỏ phù sa mùa nước lớn. Mẹ tôi gào thét, bất lực phía bên này, dõi mắt theo đám tang do cán bộ Nông trường Việt - Phi 2 và những người bạn tổ chức!”, ông Bình đỏ hoe mắt.
Sau đó mấy tháng, khi nước rút, nông trường tổ chức đưa mẹ con ông Bình sang mộ thắp hương. Năm 1971, Nông trường Việt - Phi 2 giải thể, ông Bình cùng mẹ và 2 người em được đưa về Trại Tự lập (nay là Trung tâm Bảo trợ Xã hội tỉnh Phú Thọ) để sinh sống. Do cuộc sống mưu sinh, gia đình không có điều kiện lên thăm mộ cha và ngôi mộ thất lạc từ đó đến nay.
|
Ông Bình bảo: Sau khi cha ông chết, người mẹ cực khổ của ông đã phải bỏ thời gian để đi đăng ký lại tên tuổi cho các ông. Từ tên người cha đặt, các ông đã lần lượt được chuyển sang tên Việt, lấy theo họ mẹ.
Về Trại Tự lập, mẹ con ông Bình tham gia hợp tác xã, trồng rau. Do cuộc sống khó khăn, ông Bình chỉ học được hết lớp 3 và xin làm công nhân ở Nông trường chè Vân Hùng. Năm 1984, ông nhập ngũ, sang nước bạn Lào.
Năm 1987, ông Bình ra quân, nên duyên với bà Nguyễn Thị Tố Loan, sinh 2 con Lê Thị Minh Phượng (sinh năm 1988), Lê Tuấn Hùng (1991). Ông tiếp tục làm công nhân Nhà máy chè Vân Hùng cho đến ngày nghỉ.
Hiện nay, tại xã Yên Kiện (Đoan Hùng, Phú Thọ), ngoài anh em ông Bình, còn 2 gia đình con lai có nguồn gốc Ma Rốc. Cả 3 gia đình Ma Rốc có 9 người con và số cháu chắt mang dòng máu này khoảng gần 30 người.
Dằng dặc đường về quê
“Con người sinh ra, ai cũng muốn tìm về quê quán”, ông Bình nghèn nghẹn nói với chúng tôi vậy và kể: Năm 1972, Chính phủ Việt Nam có chính sách đưa hàng binh và con cháu của họ về quê hương và 3 anh em Bình cũng nằm trong diện được đi. Trước khi nhắm mắt, bố ông đã liên lạc về quê Ma Rốc thông báo cho ông nội và 2 bác gái biết mình còn có người vợ và 3 đứa con ở Việt Nam. Do vậy, ông nội của anh em Bình đã liên lạc sang Đại sứ quán Ma Rốc ở Việt Nam và nhờ họ đưa con dâu cùng mấy người cháu về nước.
Dẫu nằm trong diện đoàn tụ, nhưng bà Mùi cương quyết ở lại Việt Nam, chỉ đồng ý cho 2 người con là Bình và Chiến sang Ma Rốc. Từ Phú Thọ, Bình và Chiến được đưa xuống Trường Hành chính Trung ương (Hà Nội) cùng nhiều đứa trẻ khác, chờ thủ tục về Ma rốc. Tuy nhiên, đến phút cuối, cả 2 anh em phải ở lại với lý do “không có người đứng ra bảo lãnh”...
“Tôi đã làm hồ sơ giấy tờ, mong được quay trở lại quê hương từ 9 năm trước và 9 năm qua, không chỉ gia đình tôi mà hết thảy những con cháu mang dòng máu Ma Rốc đều chờ đợi ngày đoàn tụ giòng họ bên nội” - Ông Bình ngong ngóng vậy và buồn rầu: “Cậu em tên Đường vừa mất vì bệnh tật, nhưng trước khi nhắm mắt, chú ấy vẫn hỏi chuyện khi nào về được quê cha!”... (Còn nữa)
Thạch Lâm Sơn - Mai Thanh Hải
Kỳ 2: Những dòng họ cô đơn
Bình luận (0)