Mục tiêu bảo đảm dự trữ chiến lược (dự trữ quốc gia) và dự trữ thương mại, đảm bảo sức chứa dự trữ dầu thô và sản phẩm xăng dầu cả nước đạt 75 - 80 ngày nhập ròng, phấn đấu đạt 90 ngày nhập ròng.
Về hạ tầng dự trữ xăng, dầu, khí đốt, Quy hoạch nêu thiết kế các nhà máy sản xuất và chế biến xăng, dầu hoạt động ổn định, đáp ứng tối thiểu 20 ngày nhập ròng trong giai đoạn 2021 - 2030, đến 25 ngày nhập ròng giai đoạn sau năm 2030.
Trong đó, hạ tầng dự trữ thương mại đảm bảo dự trữ ổn định nhu cầu thị trường trong nước với sức chứa tăng thêm từ 2.500.000 - 3.500.000m3 trong giai đoạn 2021 - 2030, đạt sức chứa tới 10.500.000m3 giai đoạn sau năm 2030, đáp ứng 30 - 35 ngày nhập ròng.
Với hạ tầng dự trữ quốc gia, đảm bảo sức chứa từ 500.000 - 1.000.000m3 sản phẩm xăng, dầu và 1.000.000 - 2.000.000 tấn dầu thô, đáp ứng 15 - 20 ngày nhập ròng trong giai đoạn 2021 - 2030; đảm bảo sức chứa từ 500.000 - 800.000m3 sản phẩm xăng, dầu và 2.000.000 - 3.000.000 tấn dầu thô, đáp ứng 25 - 30 ngày nhập ròng trong giai đoạn sau năm 2030.
Với hạ tầng dự trữ khí đốt, đảm bảo sức chứa tới 800.000 tấn giai đoạn 2021 - 2030 và tới 900.000 tấn giai đoạn sau năm 2030.
Cần dự trữ xăng dầu đáp ứng tối thiểu 20 ngày từ nay đến năm 2030
Ngoài ra, đảm bảo hạ tầng dự trữ LNG đủ năng lực nhập khẩu, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thị trường; góp phần đảm bảo cung cấp nhu cầu khí nguyên liệu cho năng lượng và các ngành công nghiệp với công suất kho tới 20 triệu tấn/năm giai đoạn 2021 - 2030 và tới 40 triệu tấn/năm giai đoạn sau năm 2030.
Bên cạnh đó, phát triển hạ tầng cung ứng xăng dầu, khí đốt đáp ứng nhu cầu vận tải bằng đường ống từ nguồn cung ứng (nhà máy lọc dầu, kho đầu mối xăng, dầu, trạm phân phối LPG và kho LNG nhập khẩu) tới các trung tâm, hộ tiêu thụ công nghiệp, dân dụng.
Để thực hiện được mục tiêu trên, Việt Nam sẽ xây dựng hệ thống dự trữ dầu thô, sản phẩm xăng, dầu phân bố tương ứng với nhu cầu sản xuất và tiêu thụ xăng dầu của các vùng, các địa phương; tối ưu về chi phí đầu tư, quản lý và vận hành.
Cụ thể, các nhà máy sản xuất và chế biến xăng dầu xây dựng hệ thống kho dự trữ theo công suất thiết kế, đáp ứng 15 ngày nguyên liệu và 10 ngày sản phẩm.
Về hạ tầng dự trữ quốc gia, giai đoạn 2021 - 2030 sẽ xây mới 500.000m3 kho chứa xăng dầu; xây mới 1 - 2 kho dự trữ dầu thô tại các khu vực gần nhà máy lọc dầu (Dung Quất, Nghi Sơn, Long Sơn) với tổng công suất 1 - 2 triệu tấn dầu thô.
Với hạ tầng dự trữ thương mại, sẽ tiếp tục khai thác 89 kho hiện có. Mở rộng 43 kho với tổng công suất tăng thêm khoảng 1,4 triệu m3. Xây mới 59 kho xăng dầu đã được quy hoạch, với tổng công suất khoảng 5,1 triệu m3.
Ngoài ra, hệ thống đường ống xăng dầu hiện có với gần 581 km sẽ được đầu tư nâng cấp; sau đó xây mới tuyến ống dẫn nhiên liệu bay từ kho đầu nguồn tại TP.HCM, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu về kho sân bay Long Thành.
Với hệ thống khí đốt, giai đoạn 2021 - 2030 sẽ tiếp tục khai thác 16 kho LPG hiện có; đầu tư, xây dựng và khai thác hiệu quả hạ tầng dự trữ LNG tại Khu công nghiệp Cái Mép, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Khu công nghiệp Nam Đình Vũ với tổng công suất khoảng 5,1 triệu tấn/năm. Mở rộng sức chứa các kho hiện có và xây mới hệ thống kho nhập khẩu LNG.
Để phát triển hệ thống hạ tầng dự trữ, cung ứng xăng dầu khí đốt đến năm 2030 theo quy hoạch, cần nguồn vốn khoảng 270.000 tỉ đồng, chủ yếu từ vốn ngoài ngân sách...
Tổ chức thực hiện Quy hoạch này sẽ do Bộ Công thương chủ trì, chịu trách nhiệm, phối hợp với các ban, bộ, ngành và các địa phương.
Bình luận (0)