Du học sinh về nước lánh dịch Covid19: nhiều chương trình liên kết để chọn theo học

Quý Hiên
Quý Hiên
20/07/2020 18:24 GMT+7

Theo Bộ GD-ĐT, hiện trong nước có 352 chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài đang hoạt động. Điều này giúp các du học sinh về nước lánh dịch Covid-19 có nhiều lựa chọn nếu muốn học tiếp đại học trong nước.

Mới đây, Thủ tướng yêu cầu Bộ GD-ĐT chỉ đạo các trường đại học, nhất là các trường có liên kết đào tạo với nước ngoài, chất lượng cao, có phương án tiếp nhận học sinh, sinh viên về học tại Việt Nam khi có nhu cầu; thực hiện việc đón học sinh, sinh viên nước ngoài đến học tập tại Việt Nam.
Vậy, thực tế hiện nay việc thực hiện liên kết đào tạo nước ngoài của các trường đại học trong nước ra sao? Dưới đây là trao đổi của bà Nguyễn Thu Thủy, quyền Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học (Bộ GD-ĐT), với Báo Thanh Niên về vấn đề này.
Bà Nguyễn Thu Thủy cho biết, theo báo cáo tính đến ngày 20.7 của các trường gửi về Bộ GD-ĐT (qua Vụ Giáo dục đại học), có tổng số 352 chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài đang hoạt động. Trong đó, ở bậc đại học có 195 chương trình, thạc sĩ có 150 chương trình và tiến sĩ có 7 chương trình.
Số lượng sinh viên, học viên và nghiên cứu sinh đang theo học ước tính khoảng dưới 30.000 người, hầu hết là trình độ đại học, số ít còn lại là học viên thạc sĩ. Nghiên cứu sinh tiến sĩ chỉ khoảng mấy chục người.
Trong đó, liên kết với các trường đại học của Pháp có 91 chương trình (riêng Trường đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội, hay còn gọi là Trường đại học Việt - Pháp, có 44 chương trình với các đối tác của Pháp); với Vương quốc Anh có 71 chương trình; Mỹ 38 chương trình; Úc 27 chương trình; Đức 20 chương trình (riêng Trường đại học Việt Đức có 11 chương trình); Đài Loan 19 chương trình; Trung Quốc 10 chương trình; Hàn Quốc 8 chương trình...

Cạnh tranh lành mạnh

Bà đánh giá như thế nào khi chúng ta có nhiều chương trình liên kết đào tạo như hiện nay?
- Bà Nguyễn Thu Thuỷ: Với sự gia tăng các chương trình đào tạo trong nước nhưng đào tạo hoàn toàn bằng tiếng Anh (như các chương trình đào tạo tiên tiến, chương trình đào tạo chất lượng cao, kỹ sư tài năng…) đã tạo nên một sự cạnh tranh đáng kể giữa các trường thực hiện liên kết đào tạo trong tuyển sinh. Nhưng đây là sự cạnh tranh lành mạnh.
Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh hoạt động bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục đại học cũng sẽ là các thách thức, nhưng đồng thời là động lực để các bên đối tác cùng nỗ lực nâng cao chất lượng đào tạo của chương trình.
Ngoài ra, sự xuất hiện của các cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng là những luồng gió mới để gia tăng cạnh tranh lành mạnh trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế - xã hội, cung cấp nhân lực cho cả thị trường trong nước và quốc tế.
Theo bà, ưu điểm của các chương trình liên kết đào tạo này là như thế nào?
Thông qua việc quản lý nhà nước các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài, chúng tôi nhận thấy các chương trình này có 3 ưu điểm chính.
Thứ nhất, người học được theo học chương trình do phía cơ sở giáo dục đại học của nước ngoài cung cấp - các chương trình đã được bảo đảm chất lượng bởi cơ quan có thẩm quyền về kiểm định chất lượng giáo dục của nước sở tại. Chương trình học theo hệ tín chỉ của nước ngoài và người học được cấp văn bằng của nước ngoài.
Thứ hai, người học được tiếp cận những kiến thức và kỹ năng mới nhất, bắt kịp với sự phát triển của khoa học và công nghệ, với đa số các chương trình này người học được sử dụng tài nguyên của trường đối tác bằng việc truy cập vào hệ thống tài liệu, học liệu ở thư viện điện tử của các trường đối tác nước ngoài.
Thứ ba, các chương trình liên kết đào tạo góp phần phát triển, nâng cao năng lực quản lý điều hành, giảng dạy và nghiên cứu khoa học của các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam; góp phần đẩy mạnh quốc tế hóa giáo dục đại học Việt Nam, hướng tới các chuẩn mực quốc tế.
Nhìn chung, với chủ chương, chính sách đúng hướng của Đảng và Nhà nước, các chương trình liên kết đào tạo quốc tế trong thời gian qua đã đóng góp đáng kể vào việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao cho đất nước. Người học được đào tạo bài bản với kiến thức và kỹ năng tiến tiến, đặc biệt, tăng cường khả năng sử dụng ngoại ngữ trong học tập và công việc sau khi tốt nghiệp.

Cần chú ý chọn chương trình hợp pháp

Trong quản lý nhà nước về chương trình đào tạo liên kết với nước ngoài hiện nay, Bộ GD-ĐT khuyến cáo gì với các trường?
Đối với các cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam, các trường cần thực hiện đúng quy định tại luật Giáo dục đại học đã được sửa đổi bổ sung năm 2018 (lưu ý điều 45), đồng thời thực hiện đúng các quy định của Chính phủ tại Nghị định số 86/2018/NĐ-CP.
Trong đó bao gồm: phê duyệt chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài theo thẩm quyền, lựa chọn trường đối tác nước ngoài, chương trình bảo đảm về uy tín, kiểm định chất lượng (hoặc được cơ quan có thẩm quyền về giáo dục nước ngoài cho phép đào tạo và cấp bằng giáo dục đại học); thực hiện đầy đủ theo thỏa thuận hợp tác, hợp đồng, xây dựng đề án, bảo đảm cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên đáp ứng quy định về chuyên môn trình độ và năng lực ngoại ngữ để giảng dạy hoàn toàn bằng ngoại ngữ, biện pháp bảo đảm chất lượng giáo dục, quyền lợi của người học, quy định về quản lý điều hành, xây dựng chương trình đào tạo, việc quản lý rủi ro…
Đặc biệt, chuẩn đầu ra của các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài không được thấp hơn chuẩn đầu ra quy định bởi các văn bản pháp luật của Việt Nam.
Việc sắp tới có nhiều du học sinh Việt Nam về nước lánh dịch Covid-19, hoặc không đi nước ngoài du học được, có thể sẽ gia tăng đáng kể nhu cầu theo học ở các chương trình liên kết. Vậy, bà có lưu ý gì khi lựa chọn chương trình để theo học?
Người học có dự định theo học chương trình liên kết đào tạo giữa cơ sở giáo dục đại học Việt Nam và cơ sở giáo dục đại học nước ngoài cần lưu ý, các chương trình liên kết đào tạo được thực hiện hoàn toàn bằng ngoại ngữ không qua phiên dịch (đa số các chương trình thực hiện bằng tiếng Anh).
Đối với trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ, các chương trình liên kết đào tạo sẽ quy định cụ thể trình độ ngoại ngữ đầu vào nhưng ít nhất phải có trình độ bậc 4 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc tương đương (tương đương trình độ B2 theo Khung tham chiếu chung châu Âu hoặc IELTS 5.5 - 6.5), quy định cụ thể tại điều 16 của Nghị định số 86. Do vậy, người học phải chuẩn bị đầy đủ về năng lực, kỹ năng ngoại ngữ tương ứng.
Người học cần chú ý lựa chọn chương trình liên kết đào tạo hợp pháp là các chương trình đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt bằng một quyết định cho phép thực hiện liên kết đào tạo (Bộ GD-ĐT phê duyệt hoặc các cơ sở giáo dục đại học tự chủ phê duyệt theo quy định của luật Giáo dục đại học và điều 22 Nghị định số 86).
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.