|
>> Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền - Kỳ 2: Chạm trán
>> Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền - Kỳ 1: Kiểm soát 'lá chắn của biển Đông'
Giữ An Bang giữa vòng vây
Những tháng đầu năm 1978, diễn biến tình hình trên khu vực quần đảo Trường Sa rất phức tạp, đặc biệt là hoạt động trinh sát dò la của máy bay, tàu thuyền Philippines, Malaysia, Hồng Kông, Trung Quốc... tại nhiều đảo.
Trước tình hình đó, Nghị quyết Đảng ủy Quân chủng Hải quân chỉ rõ “phải tập trung khẩn trương mọi nỗ lực cao nhất của toàn Quân chủng vào việc chuẩn bị chiến đấu; sẵn sàng đánh thắng kẻ thù xâm lược, giành cho được thắng lợi từ trận đầu, bảo vệ vững chắc vùng biển, hải đảo của Tổ quốc”.
|
Đầu tháng 3.1978, đại tá Cao Ánh Đăng (khi đó là trung tá) trực tiếp chỉ huy một đơn vị gồm lực lượng của Trung đoàn 146, Trung đoàn 83 Công binh Hải quân và phân đội đặc công nước của Lữ đoàn 126, theo tàu HQ-601 ra tập kết tại đảo Trường Sa xem xét tình hình và chuẩn bị đổ bộ lên đảo An Bang.
20 giờ ngày 10.3.1978, toàn thể phân đội đổ bộ, khẩn trương xây dựng và sẵn sàng bảo vệ đảo. Sau đó 20 ngày, khi lực lượng đi trên tàu 680 (Đoàn 128) do đại úy Vũ Xuân Hòa chỉ huy, cùng 31 chiến sĩ đổ bộ lên đóng giữ đảo Phan Vinh (ngày 30.3.1978), trung tá Cao Ánh Đăng cũng có mặt, nghiên cứu giúp đơn vị tổ chức lực lượng bảo vệ phòng thủ đảo.
Hồi ức về những ngày đầu tiên lên “lò vôi” An Bang của đại tá Cao Ánh Đăng, luôn có Đô đốc Giáp Văn Cương, Tư lệnh Quân chủng Hải quân. Trước đó, Tư lệnh Giáp Văn Cương trực tiếp giao nhiệm vụ cho Trung đoàn trưởng Cao Ánh Đăng: “Nước ngoài để ý từ lâu rồi. Mình không đóng nhanh, lính Trung Quốc hoặc Malaysia ra chiếm mất”.
Ông dặn dò: “Tàu Trung Quốc đang rập rình, nên phải chốt giữ ban đêm. Ban ngày đổ bộ công khai lộ liễu, nó lại ào ra chiếm lại thì chết, trong khi tàu bè của mình không bì lại với chúng nó”.
Y như rằng, bộ đội vừa chiếm giữ ban đêm, sáng hôm sau tàu chiến của Malaysia đã cơ động tới ngay.
“Sáng hôm ấy, khi đào công sự còn thấy cột mốc chủ quyền của chế độ Sài Gòn. Họ đặt ở đó rất lâu rồi, nhưng không cho quân đóng giữ, chắc do thời tiết quá khắc nghiệt”, đại tá Cao Ánh Đăng nhớ lại.
Ông cho biết: “Cả Trung Quốc và Malaysia muốn chiếm đóng An Bang, nhưng vẫn chậm chân hơn mình”. Trong buổi sáng 11.3.1978 ấy, tàu chiến Malaysia tiến sát An Bang, quay pháo hung hăng đe dọa nhưng bộ đội ta vẫn bình thản đào công sự.
“Lúc ấy tàu vận tải của ta đang thả trôi, súng ống trên tàu dưới đảo, tuy chỉ bộ binh nhưng cũng sẵn sàng hết rồi”, đại tá Cao Ánh Đăng kể.
Tại An Bang, tháng 11.1978, Hải quân Malaysia đã cho tàu chiến vây ép đảo suốt 11 ngày đêm, nhưng bộ đội ta đã kiên trì bám trận địa khiến tàu đối phương phải rút ra khỏi khu vực. Tập thể đảo và Đảo trưởng Đào Minh Thu sau đó được tặng thưởng Huân chương chiến công.
|
Làm sạch Thuyền Chài
Tháng 4.1978, tàu HQ-501 đưa 1 phân đội của Trung đoàn 146 (do đồng chí Kỳ phụ trách) ra đóng giữ. Do điều kiện vật chất chưa đảm bảo, đến tháng 5.1978, phân đội rút về đất liền.
Cuối năm 1986, Philippines đã tăng cường hoạt động thăm dò quần đảo Trường Sa, với máy bay và tàu thuyền (có tàu chiến trinh sát), hoạt động từ Song Tử Tây đến khu vực Thuyền Chài.
Malaysia cho 2 tàu khu trục hoạt động cách đảo An Bang từ 7 đến 10 hải lý, mở luồng và xây dựng cầu tàu ở đảo Chim Én, đưa lực lượng chiếm bãi Kiêu Ngựa, bãi Kỳ Vân.
|
Chủ trương đóng giữ Thuyền Chài đã có từ lâu, một đại đội được thành lập (gồm 3 trung đội, 3 pông tông) với vũ khí trang bị cần thiết, sẵn sàng đóng giữ Thuyền Chài theo lệnh của Chỉ huy Vùng 4. Tổ chức 1 phân đội công binh - công trình kết hợp với tàu neo giữ Thuyền Chài, nghiên cứu luồng lạch, vị trí neo giữ pông tông, phương hướng đưa pông tông vào vị trí đóng giữ đảo.
Ngoài ra, lực lượng dự bị gồm 1 phân đội chiến đấu của Lữ đoàn 146 và 1 phân đội của đảo Trường Sa sẵn sàng cơ động khi cần thiết. Thời gian đưa pông tông số 1 vào vị trí là ngày 10.1.1987, còn 2 pông tông còn lại trước ngày 20.1.1987; lương thực - thực phẩm đảm bảo 3 tháng...
Từ ngày 5.1.1987, đã có tàu của Hải đội 413 (Vùng 4) tiến hành cảnh giới quan sát đảo Thuyền Chài, tàu HQ-961 (Lữ đoàn 125) và HQ-674 (Hải đội 413) phục vụ kéo và vận chuyển, tàu chiến của Lữ đoàn 171 sẵn sàng chi viện khi có chiến sự xảy ra. Sở Chỉ huy phía trước ở đảo Nam Yết, khi xảy ra chiến đấu hoặc căng thẳng, cần thiết chuyển về Trường Sa, đảm bảo chỉ huy kịp thời.
Yêu cầu được đặt ra: “Nhanh chóng hành quân cơ động trên biển và thực hiện đổ bộ lên đảo. Sở chỉ huy đặt trên tàu HQ-961, chỉ huy là đồng chí Lê Văn Thư và Cao Ánh Đăng. Điều tàu HQ-614 đang làm nhiệm vụ cấp phát hàng Tết phục vụ bộ đội các đảo, về neo giữ đảo Thuyền Chài”.
Tháng 2.1987, tàu HQ-613 ra thay cho HQ-614 về căn cứ, 2 chỉ huy của Vùng 4 ra thay cho 2 đại tá Thư và Đăng về đất liền, báo cáo tình hình với Bộ Tư lệnh Hải quân. Quân chủng quyết định chiếm giữ Thuyền Chài và sáng 5.3.1987, pông tông số 01 chở lực lượng của Lữ đoàn 146 đã được bí mật kéo lên bãi, bộ đội treo cờ đỏ sao vàng lên ca bin pông tông, khẳng định chủ quyền của Việt Nam và Thuyền Chài là đảo chìm đầu tiên được Việt Nam đóng giữ tại quần đảo Trường Sa.
|
Quý 2/1987, Trung đoàn 83 Công binh Hải quân hoàn thành việc xây dựng ở đảo Thuyền Chài và một số công trình khác trên đảo.
“Thời điểm xây dựng Thuyền Chài, máy bay Malaysia liên tục bay qua bay lại, thấp đến mức nhìn rõ chữ in trên thân”, đại tá Cao Ánh Đăng nhớ lại.
Đại tá Đăng kể, trong thời gian cảnh giới, chờ đóng giữ Thuyền Chài (cuối năm 1986), anh em báo tàu cá Trung Quốc trinh sát tất cả các đảo. Ông liền điện về bờ, đề nghị cho người biết tiếng Trung ra Trường Sa.
Ông kể: “Hôm ấy, phát hiện tàu cá Trung Quốc neo đậu sát đảo, tôi lệnh cho tàu chạy tới áp sát, anh em trên tàu sẵn sàng. Tàu Trung Quốc thấy mình chạy tới, mới cho người lên boong căng dây phơi quần áo, như thể đi biển. Mấy anh em chúng tôi cùng đồng chí phiên dịch nhảy sang hỏi: “Tàu của nước nào?”. Chủ tàu khoảng 40 - 45 tuổi trả lời: “Tàu của Trung Quốc!”. “Cụ thể ở chỗ nào của Trung Quốc?”. “Hợp tác xã đánh cá tỉnh Quảng Tây”.
“Tôi chắc chắn là tàu Trung Quốc, nên yêu cầu phiên dịch nói chậm rãi: “Đảo này là của Việt Nam, các đảo nơi đây đảo Việt Nam. Yêu cầu các anh rời khỏi khu vực!”. Vừa nói xong, có 5 cái xuồng máy nhỏ ào ào về cập mạn tàu, trên mỗi xuồng có 1 thanh niên, toàn 19 - 20 tuổi, trắng trẻo đẹp trai”, đại tá Đăng nhớ lại.
Ông tiếp lời: “Tôi hỏi: “Các anh này là ai, đi đâu về?”. Chủ tàu đáp: “Ngư dân của chúng tôi câu cá trong hồ. Phải câu cá sống, bán mới nhiều tiền” và đưa ống câu ra cho xem. Đến lúc này, tôi vạch mặt thẳng: “Các anh đừng nói dối. Ngư dân gì mà trắng trẻo vậy? Các anh là lính thủy đánh bộ của Trung Quốc, đến đây để trinh sát. Cái gọi là cước câu là sợi chỉ đo độ sâu, khảo sát địa điểm cho xuồng đổ bộ” và yêu cầu: “Rời khỏi đây ngay lập tức”.
“Thằng chủ tàu im thin thít cúi đầu và kéo 5 cái xuồng lên boong tàu, đi mất dạng”, đại tá Cao Ánh Đăng kể tiếp. (Còn tiếp)
|
Mai Thanh Hải
>> Lập bài vị các liệt sĩ Gạc Ma trong chùa Sinh Tồn
>> Loạt bài '25 năm hải chiến Trường Sa' của TNO giành giải A báo chí quốc gia
>> 25 năm hải chiến Trường Sa - Kỳ 5: Mùa xuân nhớ con anh hùng
>> 25 năm hải chiến Trường Sa - Kỳ 4: Cuộc trở về của Nguyễn Văn Lanh
>> 25 năm hải chiến Trường Sa - Kỳ 3: 1.000 ngày bị địch bắt
>> 25 năm hải chiến Trường Sa - Kỳ 2: Anh hùng đất Việt
>> 25 năm hải chiến Trường Sa
Bình luận (0)