Hải Vân quan, một di sản đi qua nhiều biến động

03/07/2021 10:00 GMT+7

Ca dao, tục ngữ xứ Quảng từng nhắc về sự hiểm trở của núi đèo chia cách Đà Nẵng và Huế: “Đi bộ thì sợ Hải Vân/Đi thủy thì sợ sóng thần hang Dơi” … Ngày nay, 2 hầm đường bộ xây dựng từ năm 2006 và 2020 đã giúp việc đi lại đèo Hải Vân chỉ tốn nửa giờ.

Năm 1819, thuyền trưởng Rey, một sĩ quan người Pháp từng giúp quân đội Gia Long, đi qua các đèo Đá Bạc, Cầu Hai, Phú Gia rồi đến Nam Chơn và vượt đèo Hải Vân để đến Đà Nẵng phải mất đến mấy ngày. Ba năm sau, tháng 10.1822, nhà thám hiểm người Anh John Crawfurd cũng đi như lộ trình của Rey nhưng chỉ mất 18 giờ từ Huế đến Nam Chơn và mất khoảng 4 tiếng rưỡi để vượt đèo Hải Vân. Có lẽ lúc ấy nhờ đường đèo đã mở rộng hơn dưới triều vua Minh Mạng. Nếu lấy cột mốc của Rey và Crawfurt, đường vượt Hải Vân đã được khám phá cách đây tròn 200 năm…

Hải Vân trong các sử liệu

Chứng cứ sớm nhất về đoạn đường này có lẽ là của Thomas Bowyear, một thương gia người Anh. Ông ghi chép một đoạn nhỏ: “Ngày 4.10.1695, khởi hành từ Hội An, đi dọc theo bờ biển và trên các núi cao, dù có con đường ngắn hơn nhưng bị cấm (?), nên tôi không thể đi được... ” (Mme Mir & L.Cadière, 1920, tr.194).
Còn Pierre Poivre (1717-1786), một thương gia Pháp từ Hội An ở Đàng Trong đã có đến 4 lần vượt đèo Hải Vân đến Huế: Lần đầu đi mất 5 ngày; lần thứ tư từ Huế vào Đà Nẵng mất chưa đến 2 ngày (từ tối 13 đến 15.1.1750). Trong hồi ký, Poivre ghi lại chuyến đi thứ hai của mình: Rời Huế vào trưa 13.12.1749, bằng thuyền trên sông Hương qua các đầm Thanh Lam, Hà Trung và Cầu Hai để đến làng Đò ở cửa biển Tư Hiền vào sáng hôm sau, tức là mất đến 18 giờ. Sáng hôm sau, thuê phu khiêng cáng và hành lý, Pierre Poivre đã đi dọc theo bãi biển Cảnh Dương và vượt 3 ngọn núi để ngủ lại ở trạm Lăng Cô. Sáng 15.12.1749, ông lấy thuyền qua vụng An Cư và mất đến 7 tiếng đồng hồ leo núi mới vượt đèo Hải Vân với nhiều rừng rậm, khe suối, thác ghềnh… để ngủ lại ở vịnh Hòn Hành (Nam Chơn). Hôm sau, lại đi thuyền đến Nam Ổ ngủ lại. Hôm sau nữa, vào Hội An bằng cáng, sau khi đi dọc biển đến cửa Hàn. Như vậy, Pierre Poivre đã mất gần 40 tiếng đồng hồ cho hành trình.

Phát lộ con đường bộ ngang qua Hải Vân quan

ẢNH: HOÀNG SƠN

Trong chuyến đi thứ tư từ Huế vào Đà Nẵng (từ tối 13 đến ngày 15.1.1750), Pierre Poivre chỉ mất có 21 giờ, nhờ đi ca nô từ phía nam đèo Hải Vân đến Đà Nẵng… Một tài liệu khác của Henry Cossaert ch thấy, đến gần cuối thế kỷ 19, đi từ Đà Nẵng đến Huế mất đến 55 giờ, gộp cả thời gian ăn uống, nghỉ ngơi và ngủ lại dọc đường.
Nửa thế kỷ sau chuyến vượt đèo của thuyền trưởng Rey, năm 1876, đến lượt đại úy Dutreuil de Rhins (một sĩ quan Pháp) đã mô tả chuyến đi rất mệt nhọc qua các cồn cát ven theo vịnh Nam Ô, Đà Nẵng và đi đò qua sông Câu Đê trong hành trình từ Đà Nẵng ra Huế. Hành trình mất đến 27 giờ. Qua miêu tả của Dutreuil de Rhins, ta thấy trên đỉnh đèo có 50 lính bảo vệ và một xóm khoảng 6 nóc nhà của người dân… Lăng Cô lúc đó đã là một làng lớn, Cầu Hai chỉ khoảng 1.000 dân, Nam Chơn có đông dân, nhiều hàng quán bán nước chè…
Một tài liệu của Charles Paris cho thấy ông là người đã thi công đường dây điện báo từ Huế vào Đà Nẵng vào đầu tháng 10.1885. Nhưng trước đó, vào năm 1809, theo mô tả của chính sử, vua Gia Long cho làm đường từ Huế đến đèo Hải Vân, rộng đến 3 trượng (tức 12 m) và đã cho trồng các loại danh mộc, nhất là cây mù u (nam mai mộc) ở hai bên. Trong 3 năm 1885-1887, công binh Pháp có lúc dùng đến 2.800 lao công người Việt đã làm thêm được 13 km đường đất rộng 3 m đi từ Liên Chiểu (chứ không phải qua ngã Nam Chơn nữa) đến quá đỉnh đèo Hải Vân 3km.
Theo Marcel Monnier, vào năm 1895, đoạn đường quan lộ bắc Hải Vân còn rất nguy hiểm vì có nơi độ dốc lên đến 60%. Đầu năm 1897, trước khi Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đi từ Huế vào Đà Nẵng, đoạn đường này mới được cải thiện như giảm độ dốc chỉ còn tối đa 12%, làm nhiều cầu bằng tre và gỗ qua suối hay hố sâu. Nhờ thế, Paul Doumer và mấy sĩ quan tùy tùng người Pháp đã có thể cỡi ngựa qua đèo trong khi phụ chính đại thần Nguyễn Thân và các vị thượng thư triều đình Huế thì vẫn đi cáng (theo Nguyễn Tùng, CRNS, Paris).
Toàn quyền Paul Doumer sau này đã viết hồi ký về những kỷ niệm Đông Dương và mô tả về Đà Nẵng khi đứng trên đỉnh Hải Vân nhìn xuống: “Dưới kia vịnh Đà Nẵng hiện ra. Không một cảnh quan thần tiên nào của Địa Trung Hải vừa có được cái đẹp và cái to tát này. Cứ thử lấy một nơi xinh nhất của bờ biển Côte d’Azur như vịnh Villefranche rồi nhân lên mười lần hay hai mươi lần, các vị sẽ hình dung được Đà Nẵng [...]. Thực vậy, chỉ duy cảnh này thôi cũng đáng cho những người nhàn rỗi đi du lịch từ Pháp sang Viễn Đông, nơi còn có nhiều cái khác đáng quan tâm và thưởng lãm” (H.Cossaert, sđd, tr.130-131 và Xứ Đông Dương của P.Doumer).

Hai thế kỷ 'xẻ' đường

Bên cạnh việc khai thông đường đèo Hải Vân, Toàn quyền Paul Doumer đã vay 200 triệu quan Pháp để làm đường xe lửa ở Đông Dương. Đoạn đường xe lửa nối Đà Nẵng với Huế được nghiên cứu trong 3 năm trước khi khởi công và khai trương vào ngày 15.10.1906 với 9 đường hầm dài tổng cộng 3.275m và đi mất 4 giờ. Nghĩa là nhanh gấp gần 4 lần phương tiện vận tải khác và chỉ mất 15 giờ để đi từ Đà Nẵng ra Huế.
Đến năm 1918, QL1 qua Hải Vân mới làm xong, nhưng đi ô tô cũng phải mất đến 4 giờ từ Đà Nẵng ra Huế và ngược lại. Vì đường qua đèo chỉ một chiều, cho đến những năm đầu của thập niên 1960, xe phải dừng lại trên đỉnh để nhường đường cho chiều ngược lại. Sau năm 1965, khi quân Mỹ đổ bộ vào Việt Nam, đèo Hải Vân được mở rộng với 2 làn xe qua lại ngược chiều như ngày nay, trước khi dự án xây hầm khởi công thuộc Hành lang kinh tế Đông - Tây do Chính phủ Nhật tài trợ…

Hai hầm đường bộ xuyên đèo Hải Vân

ẢNH: H.X.H

Nếu kể từ tháng 6.1809 khi Gia Long ra lệnh mở đường cho đến năm 2005-2006 khi hầm đường bộ Hải Vân thứ nhất được khánh thành, lịch sử đường đèo này đã có đến trên 200 năm. Trong hơn 2 thế kỷ dằng dặc đó, Hải Vân (cả đèo và núi) đã chứng kiến 2 cuộc chiến tranh đẫm máu đã được nhiều tài liệu ghi lại. Dãy Hải Vân là một nhánh của Trường Sơn vắt ngang ra biển, tạo ra một vị trí chiến lược về giao thông, phòng thủ quốc phòng của khu vực miền Trung và biển Đông. Chính vị trí chiến lược đó, việc giao thương cũng hết sức quan trọng. Ai đã chứng kiến cảnh đổ nát và ngưng trệ khi con đèo bị sạt lở sau các trận mưa lũ kinh hoàng các năm 1999-2000 mới thấy hết tầm quan trọng của nó!
Sau 15 năm hoạt đồng của hầm đường bộ số 1, hầm Hải Vân 2 với chiều dài 6,2 km (chiều dài tuyến 12,4 km bao gồm cả đường dẫn) được coi là công trình hầm đường bộ dài nhất khu vực Đông Nam Á do Tập đoàn Đèo Cả của Việt Nam tự thiết kế và thi công suốt 4 năm với những giải pháp công nghệ tích lũy từ nhiều năm. Như vậy, đến đầu tháng 1.2021, việc qua lại đèo Hải Vân hiểm trở từ hơn 200 năm trước đã có cả thảy 4 tuyến: đèo đường bộ, đường xe lửa, 2 tuyến hầm mới. Mọi cách trở của QL1 lẫn Hành lang kinh tế Đông - Tây xem như được “giải quyết”.
Trong 2 thế kỷ đó, sự thông thương thuận lợi như ngày nay cũng tạo ra tiền đề cho sự phát triển các khu công nghiệp, du lịch, cảng biển như Liên Chiểu, Lăng Cô, Chân Mây ở hai đầu Hải Vân… tạo ra một chuỗi những đô thị mới trên trục Huế - Đà Nẵng. Và rộng hơn, đã tạo ra cho cả tuyến Hành lang kinh tế Đông - Tây một cơ hội cùng giao lưu và phát triển.
Nhà thơ Khương Hữu Dụng với trường ca Từ đêm 19 hồi chống Pháp mô tả một Hải Vân cách trở mà hùng tráng với “Một tiếng chim kêu sáng cả rừng”. Còn thời bình, nhà thơ Quảng Nam khác là Thu Bồn đã “…trở về hóa đá phía bên kia”, tuy lúc đó Hải Vân không còn cách trở nữa. Một hàm ý xa biệt của thời gian và không gian, khi tạm biệt Huế…
Bởi vậy, Hải Vân quan, với một bề dày lịch sử đầy biến động đó, xứng đáng là một di sản của chúng ta! 
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.