Cái hấp dẫn của hát bội chính là những tuồng tích thấm đẫm đạo lý làm người mà những con người dân quê môc mạc muốn hướng đến và cũng là những cung cách ứng xử rất đời thường đối với người thân trong gia đình, họ tộc cũng như láng giềng và xã hội.
Hát bội có nguồn gốc từ Bình Định rồi lan tỏa ra Quảng Ngãi, Quảng Nam. Khi ra đến Quảng Nam, hát bội được người dân Quảng Nam đón nhận một cách nồng nhiệt và cùng với hát bài chòi, hai bộ môn nghệ thuật này là không thể thiếu được, là món ăn tinh thần của người dân quê tôi khi tết đến xuân về.
Hát bội là bộ môn nghệ thuật mà diễn viên trang điểm rất cầu kỳ, qua trang điểm người ta có thể nhận ra ai là trung thần, ai là nịnh thần có kèm theo điệu bộ mà người lớn lẫn trẻ con quê tôi ai cũng thích.
Biết người dân quê tôi ghiền hát bội nhưng vì bận việc ruộng nương nên ít có thời gian để xem, nên cứ sau tết vài ngày, thường có đám gánh hát bội về miền quê biểu diễn. Những gánh hát bội ấy thường đi bằng ghe bầu, có khi bằng xe riêng của đoàn mình. Những ngày đoàn tuồng về làm cho những ngày tết quê tôi sống động hẳn lên. Những ngày này lũ trẻ chúng tôi rất vui mừng và thích thú. Không như ở thành phố bây giờ, người ta dùng xe ô tô có loa phóng thanh chạy quanh các phố chính thông báo và phát tờ rơi. Còn ở quê, quảng cáo cho đêm hát bội ngày ấy, người ta dùng xe đạp chạy quanh các đường làng mang theo chiếc trống nhỏ bịt bằng da trâu giục trống từng hồi cùng với chiếc loa thiếc rao lên. Lũ trẻ chúng tôi, kéo nhau hàng đoàn chạy theo reo hò ầm ĩ. Sân khấu dành cho đêm hát bội là khu vực đất rộng của làng. Những vở hát bội ngày ấy là những tuồng tích ngày xưa như: Phạm Công Cúc Hoa, Lâm Sanh Xuân Nương, Thoại Khanh Châu Tuấn… Những vở tuồng ấy đã từng lấy đi biết bao nhiêu nước mắt thương cảm của những người bà, người mẹ và cả những cô thôn nữ quê tôi.
Vào những đêm có hát bội, người ta thường ăn cơm sớm. Các cụ bà thi chuẩn bị một túi trầu cau cùng với cái quạt mo, người lớn thì dắt theo con ra sân làng để xem hát. Trời vừa sẫm tối, tiếng trống của gánh hát giục liên hồi làm cho chúng tôi nôn nao khó tả. Lũ trẻ chúng tôi và vội vài chén cơm rạo rực ngồi trước hiên nhà chờ người lớn dẫn đi xem. Hối ấy đâu có tiền nhiều, cha mẹ dẫn đi xem một vài đêm đầu, những đêm sau vì thèm xem nên chúng tôi rủ nhau “coi cọp”. Cái cảnh “coi cọp” gian nan đáo để. Muốn được coi, chúng tôi bàn nhau nghiên cứu hàng rào của sân khấu, và sau đó tìm cơ hội lẻn vào núp dưới gầm sân khấu trước giờ biểu diễn, mặc cho kiến cắn, muỗi đốt… Khi buổi hát mở đầu được một lúc chúng tôi mới chui ra ngồi bệt xuống đất mà xem. Có nhiều lần bị người trong đoàn hát bắt được chúng tôi bị véo tai, đá đít nhưng vì quá ghiền xem hát chúng tôi vẫn cứ liều mình “coi cọp”.
Không chỉ xem hát, chúng tôi còn bắt chước họ sang bên chợ, đến hàng may, nhặt những mảnh vải màu đủ kiểu về cột quanh trán, thắt ngang lưng, cột vào các thanh kiếm gỗ tự chế ra ruộng múa may hát theo câu đực câu cái của các đào kép và cùng vỗ tay thích chí. Những cú bay trên sân khấu ngoạn mục của các đào kép cũng được chúng tôi học tập bằng cách lấy dây dừa cột ngang lưng những đứa nhỏ và vắt qua nhánh cây thù đâu (sầu đông) còn những đứa lớn thì kéo lên, đứa nhỏ đu đưa lộn đầu xuống đất rồi cười vang khắp xóm. Cái vết thẹo ở cằm theo tôi đến tận bây giờ là cú bay chổng ngược của tôi dưới nền đất của một màn đấu kiếm trên không chẳng may dây bị đứt.
Theo thời gian, nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của lớp người sau đã khác xưa, những đoàn tuồng ngày càng thưa thớt, nói một cách triết lý thì hát bội ngày nay đã mất dần vai trò lịch sử trong nhu cầu nghệ thuật nước nhà. Tuy nhiên, ngày nay, nhớ về mảnh đất Quảng Nam, những người con xa xứ quê tôi có nhiều cái để nhớ, nhưng tôi chắc rằng những con người sinh ra cùng thời như tôi trên đồng đất quê nhà ắt hẳn vẫn còn lưu lại trong ký ức của mình về những đêm hát bội ngày tết cùng những tiếng trống chầu giục giã đến nao lòng khi mỗi độ xuân về.
|
Bình luận (0)