Nặng lòng với giang san
Vua Hàm Nghi, tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, sinh năm 1871, là con thứ 5 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai. Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã đứng đầu bảng trong một cuộc thi do đích thân vua Tự Đức chấm, với bài Phú chống Pháp được vua khen ngợi là "khí phách trượng phu".

Cựu hoàng Hàm Nghi lúc mới bị đày sang Alger
Ảnh: Báo Journal des voyage
Dù còn trẻ tuổi, vua Hàm Nghi đã sớm nhận thức nguy cơ mất nước và kiên quyết không hợp tác với thực dân Pháp. Ông cùng với phái chủ chiến, đứng đầu là Thượng thư Bộ binh Tôn Thất Thuyết, luôn tìm cách chống lại âm mưu của quân Pháp xâm lược.
Đêm mùng 4 rạng ngày 5.7.1885, đội quân của phe chủ chiến tấn công đồn Mang Cá và tòa Khâm sứ Pháp tại kinh thành Huế. Cuộc tấn công thất bại, kinh thành thất thủ, Tôn Thất Thuyết hộ tống vua Hàm Nghi xuất bôn ra Tân Sở (Quảng Trị). Ngày 13.7.1885, tại thành Tân Sở, Tôn Thất Thuyết thay mệnh nhà vua hạ chiếu Cần Vương, kêu gọi toàn thể quan lại, sĩ phu, binh lính và nhân dân cả nước đứng lên cầm vũ khí chống giặc.
Chiếu Cần Vương nhanh chóng lan khắp cả nước, thổi bùng lên ngọn lửa phong trào chống Pháp.
Hành trình xuất bôn ra Tân Sở đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời vua Hàm Nghi, từ vị vua trẻ tuổi trên ngai vàng trở thành người lãnh đạo cuộc kháng chiến của toàn dân tộc.
Từ Tân Sở, được sự hộ giá của Tôn Thất Thuyết, vua Hàm Nghi và đoàn tùy tùng tiếp tục di chuyển qua nhiều vùng rừng núi hiểm trở ở Quảng Bình, Hà Tĩnh, và sang Lào. Cuộc sống nơi chiến khu vô cùng gian khổ, thiếu thốn mọi bề, luôn đối mặt với hiểm nguy từ quân Pháp, nhưng nhà vua chẳng những không hề nao núng, mà càng tăng thêm quyết tâm lãnh đạo phong trào kháng chiến.
Dưới sự chỉ đạo của Tôn Thất Thuyết, các lực lượng vũ trang đã tổ chức nhiều cuộc kháng chiến chống Pháp trên khắp các tỉnh miền Trung. Tuy nhiên, do sự chênh lệch về lực lượng, vũ khí và sự truy quét gắt gao của Pháp, phong trào Cần Vương dần gặp nhiều khó khăn. Các cuộc khởi nghĩa tuy anh dũng nhưng thiếu sự liên kết và chỉ huy tập trung, dần bị quân Pháp đàn áp.
Năm 1888, Trương Quang Ngọc và Nguyễn Đình Tình dẫn quân truy lùng và bắt giữ vua Hàm Nghi khi ông đang nghỉ ngơi tại vùng núi Quảng Bình. Vụ bắt giữ này đã khép lại sự nghiệp kháng chiến của vua Hàm Nghi dưới hình thức lãnh đạo trực tiếp.
Ông vua bị lưu đày
Ngày 25.11.1888, vua Hàm Nghi bị Pháp đưa xuống tàu ở Lăng Cô để đi Sài Gòn rồi đến Bắc Phi. Ngày 13.1.1889, tàu cập bến thủ đô Alger của Algérie. Vua Hàm Nghi lúc này mới 18 tuổi, chính thức bắt đầu cuộc đời lưu đày trên đất khách.

Tòa Khâm sứ Pháp tại Huế (tranh khắc gỗ), nơi từng bị đội quân của phái chủ chiến trong triều đình nhà Nguyễn do Trần Xuân Soạn chỉ huy tấn công vào đêm 4 rạng sáng 5.7.1884
Ảnh: Tư liệu Bảo tàng Mỹ thuật VN
Trong những năm tháng đầu tiên nơi xứ người, vua Hàm Nghi vẫn giữ nguyên nếp sống và trang phục truyền thống của dân tộc. Ông đã trải qua nhiều khó khăn, thử thách, nhưng vẫn giữ vững khí tiết và tình yêu quê hương.
Sau này, ông học tiếng Pháp và tìm thấy niềm vui trong nghệ thuật, đặc biệt là hội họa. Những tác phẩm của ông luôn bàng bạc nỗi niềm ưu tư cố quốc.
Vua Hàm Nghi lấy một người vợ Pháp là bà Marcelle Laloe (1884 - 1974), con gái của vị Chánh án tòa Thượng phẩm Alger. Ông bà có 3 người con là công chúa Như Mai (1905 - 1999), công chúa Như Lý (1908 - 2005) và hoàng tử Minh Đức (1910 - 1990).
Nữ tiến sĩ Amandine Dabat (hậu duệ đời thứ năm của vua Hàm Nghi) đã chủ động tìm hiểu sâu sắc về tổ tiên mình, tiếp cận hơn 2.500 tài liệu quý (thư từ, tranh ảnh) để làm luận án tiến sĩ, qua đó kể lại cuộc sống của vua Hàm Nghi khi bị lưu đày, giúp công chúng có cái nhìn mới về một vị vua yêu nước, một nghệ sĩ tài hoa.
Câu chuyện về vị vua trẻ tuổi đứng lên lãnh đạo kháng chiến, đối đầu với một đế quốc hùng mạnh đã khơi dậy lòng tự hào dân tộc, nhắc nhở thế hệ sau về những hy sinh của cha ông vì cơ đồ của đất nước.
Bình luận (0)