Từ điển phương ngữ Nam bộ do Nguyễn Văn Ái chủ biên giảng là “kỳ lạ, vô cùng, hết sức, tuyệt”. Thế là quyển từ điển này chỉ lấy có phần ngọn mà bỏ hẳn phần gốc trong cấu trúc ngữ nghĩa của hai tiếng kỳ cục.
tin liên quan
Petro là gì?Nhưng đâu là xuất xứ của hai tiếng kỳ cục? Đây là một cấu trúc đẳng lập tiếng Hán gồm hai thành tố kỳ [奇] và cục [局]. Kỳ là lạ, hiếm thấy còn cục là cong, hẹp, quanh co. Vì vậy nên kỳ cục [奇局] thường được giảng là “tân kỳ khúc chiết” [新奇曲折], tức “mới lạ, lắt léo”. Cấu trúc đẳng lập này có một danh ngữ đồng âm mà chữ Hán là [棋局]. Hai chữ Hán (kỳ cục) này vốn có nghĩa là bàn cờ, tức kỳ bàn [棋盤] nhưng ngày nay thường được hiểu là cái thế trận, cái nước đi của hai đối thủ trên bàn cờ. Vì vậy nên người ta đã chơi chữ mà tạo ra cái cấu trúc Chủ - Vị (nhận định, tường thuật) thú vị là kỳ cục kỳ cục [棋局奇局] để khen cái nước đi mới lạ, lắt léo, khó đối phó trên bàn cờ. Khốn nỗi dân Việt miền Nam lại không biết được cái nghĩa gốc chính xác của hai tiếng kỳ cục nên lại dùng nó để chê cái mới mà không hay, cái lạ mà lại tệ, nghĩa là đã xài nó theo cái nghĩa đã cho trong Tự-điển Việt Nam của Ban Tu thư Khai-Trí.
Đó là hệ quả của từ nguyên dân gian (folk etymology). Vì chỉ hiểu kỳ cục một cách chung chung mà không biết nghĩa gốc của nó trong tiếng Hán là gì nên người ta đã đánh đồng chữ cục của nó với cục trong cục cằn, cục mịch, cục súc..., mà xài hai tiếng đó theo cái nghĩa “chướng đời khó coi” (Lê Văn Đức), “khác thường một cách lố bịch” (Ban Tu thư Khai-Trí). Phải nói thẳng rằng nhiều khi diễn tiến ngữ nghĩa của một số từ, ngữ đã đi theo một lộ trình kỳ cục chỉ vì sự không biết chữ.
Bình luận (0)