Từ điển Annam - Bồ Đào Nha - Latinh (Roma, 1651) của A.de Rhodes còn ghi chếm cu thay vì chấm câu, cu lan thay vì câu lan (lơn), bồ cu thay vì bồ câu. Nhưng đến Tự vị Annam - Latinh (1772 - 1773) của Pierre Pigneaux de Béhaine thì đã thấy ghi chấm câu, bồ câu, câu lơn, chứ không còn ghi “cu” cho những trường hợp này nữa. Riêng chữ câu trong bạch câu quá khích thì vẫn còn được ghi là bạch cu.
tin liên quan
Lắt léo chữ nghĩa: Từ vảy tê tê đến giãy tê têCu trong ngựa cu cũng chính là cu trong bạch cu, nay đã đọc thành câu, chữ Hán là [駒], có nghĩa là: 1. ngựa non mà khỏe; 2. động vật còn non tuổi; 3. còn non tuổi nói chung. Trên đây là những nghĩa đã cho trong Hán ngữ đại tự điển (đã dẫn) và chúng tôi đã ghi đúng theo thứ tự đã cho trong quyển từ điển này. Nhưng đây thực ra chỉ là một thứ tự ngược chiều vì đúng ra thì phải là: 1. còn non tuổi; 2. động vật còn non tuổi; 3. ngựa non mà khỏe. Sở dĩ nói đây là một thứ tự ngược chiều là vì chữ câu [駒] bộ mã [馬] chỉ là trường hợp ứng dụng nghĩa 2 (động vật còn non tuổi) cho loài ngựa (còn nghĩa 2 thì chỉ là ứng dụng từ nghĩa 1) mà thôi. Chữ này còn có một số đồng nguyên tự chỉ những con vật non tuổi thuộc giống khác, như dê, bò (hoặc trâu), gấu, hổ, mà Vương Lực đã nêu trong Đồng nguyên tự điển (Bắc Kinh, 1997, tr.182, ảnh) và chim, lợn rồi cả người nữa, như Lưu Quân Kiệt đã bổ sung trong Đồng nguyên tự điển bổ (Bắc Kinh, 1999, tr.65).
Vậy, cu trong ngựa cu chính là âm xưa của chữ câu trong bạch câu quá khích, còn được bảo lưu trong phương ngữ Nam bộ. Ngựa cu vốn có nghĩa là ngựa non mà khỏe, về sau đã chuyển nghĩa một cách “phóng khoáng” để chỉ một giống ngựa vóc nhỏ, bất kể cá thể được nói đến còn non hay đã già. Nếu không phải vì một sự nhạy cảm mà Cao Xuân Hạo từng nói đến (*) thì có lẽ là dân VN đầu thế kỷ 21 vẫn còn nói bạch cu chứ không phải bạch câu vì thực ra câu [駒] là một chữ thuộc vận bộ ngu [虞], như đã cho rõ ràng trong tự thư và vận thư.
-------------
(*) Cao Xuân Hạo đã viết như sau: “Người Việt nhận diện ra các tiếng tục ngay cả khi không hề có calembour (một kiểu chơi chữ bằng hiện tượng đồng âm - A.C) và trong những ngữ cảnh ít thuận lợi cho việc nhận diện nhất như trong các tên riêng ngoại quốc đa âm tiết chẳng hạn. Những tiếng như cu, đít, ghe ngay trong bối cảnh này cũng bị hiểu như tiếng tục và do đó thường được ghi trẹ đi để tránh cách hiểu đó” (“Về cương vị ngôn ngữ học của tiếng”, Ngôn ngữ, số 2-1985, tr.28).
Bình luận (0)