Điều đáng lo hơn là sự việc kéo dài nhưng chỉ được phát hiện khi thiệt hại đã quá lớn. Chính lực lượng kiểm lâm địa phương cũng thừa nhận có khoảng trống trong quản lý, không theo kịp diễn biến trên thực địa.
Đây không phải câu chuyện cá biệt. Trong thời gian qua, nhiều địa phương đã ghi nhận các vụ phá rừng như: rừng ven biển ở Huế, rừng đặc dụng thuộc Vườn quốc gia Ba Bể (Thái Nguyên), hay rừng ở Điện Biên, Quảng Bình...
Vì sao hệ thống pháp luật và lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng đều có, nhưng rừng vẫn tiếp tục bị xâm hại ? Trước hết, cơ chế chính sách hiện nay vẫn còn nhiều bất cập. Quy định về giao rừng, cho thuê rừng hay giao khoán bảo vệ chưa rõ trách nhiệm, thiếu gắn lợi ích với nghĩa vụ, còn lỏng lẻo về ràng buộc pháp lý. Trong khi đó, chế tài xử lý vi phạm chưa đủ mạnh để răn đe những đối tượng phá rừng với động cơ kinh tế lớn.
Một nguyên nhân khác là nguồn lực bảo vệ rừng còn mỏng. Nhiều kiểm lâm phải phụ trách địa bàn rộng, địa hình hiểm trở, thu nhập lại thấp. Áp lực lớn nhưng lực lượng ngày càng giảm khiến công tác tuần tra khó bao quát để phát hiện sớm những nguy cơ xâm hại.
Quan trọng hơn, công tác bảo vệ rừng chưa tận dụng đầy đủ công nghệ. Khi thế giới đã dùng dữ liệu vệ tinh, flycam, trí tuệ nhân tạo để giám sát liên tục, thì nhiều địa phương ở ta vẫn quản lý theo cách truyền thống (ghi chép thủ công, đi tuần định kỳ theo tuyến) hoặc áp dụng công nghệ giám sát chưa thật sự hiệu quả. Việc phát hiện các vụ phá rừng vì vậy luôn chậm, xử lý khi sự việc đã rồi, và không theo kịp sự tinh vi của các vi phạm.
Từ vụ phá rừng ở Gia Lai và nhiều vụ phá rừng gần đây, có thể thấy một lỗ hổng lớn: lực lượng bảo vệ rừng thì mỏng, cơ chế quản lý thì lạc hậu, trong khi các hành vi vi phạm ngày càng tinh vi, liều lĩnh hơn. Nếu không thay đổi cách tiếp cận, nạn phá rừng chắc chắn sẽ còn tiếp diễn, kéo theo những hệ lụy về môi trường mà ai cũng đã thấy rõ.
Bình luận (0)