>> Kỳ 6: Những luận cứ chủ quyền không vững chắc
Tác phẩm cũ nhất có nói về sự tồn tại của các đảo là Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (1630 - 1653) do Đỗ Bá, tự Công Đạo soạn. Tài liệu này bao gồm các bản đồ An Nam từ thế kỷ XV trong đó có tấm vẽ các quần đảo Paracels và Spratlys trong biển Đông dưới tên gọi Bãi Cát Vàng và Trường Sa, thuộc phủ Quảng Ngãi:
“Giữa biển có một dải cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng, dài độ 400 dặm, rộng 20 dặm, đứng dựng giữa biển, từ cửa Đại Chiêm đến cửa Sa Vĩnh. Một lần có gió Tây Nam thì thương thuyền các nước đi ở phía trong trôi dạt ở đấy, có gió Đông Bắc thì thương thuyền chạy ở ngoài cũng trôi dạt ở đấy, đều cùng chết đói cả, hàng hóa thì đều để ở nơi đó”.
|
Trong Phủ biên tạp lục (1776), Lê Quý Đôn, Hiệp trấn Thuận Hóa viết:
“Phủ Quảng Ngãi, huyện Bình Sơn, có xã An Vĩnh, ở gần biển, ngoài biển về phía Đông Bắc, có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn một trăm ba mươi ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng dài ước hơn ba mươi dặm, bằng phẳng, rộng lớn, nước trong suốt đáy”.
Đại Nam thực lục tiền biên, phần về các chúa Nguyễn (1600 - 1775), quyển X ghi nhận địa danh Hoàng Sa và Trường Sa và các hoạt động quản lý của các chính quyền VN:
“Xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi, ở ngoài biển, có hơn một trăm ba mươi bãi cát, cách nhau hoặc một ngày đường hoặc vài trống canh, kéo dài không biết mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn Lý Hoàng Sa, trên bãi có giếng nước ngọt. Sản vật có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, vích… Hồi đầu dựng nước, đặt đội Hoàng Sa gồm 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hằng năm đến tháng 3 đi thuyền ra đảo, độ ba ngày đêm thì đến, thu lượm hóa vật, đến tháng 8 trở về nộp. Lại có đội Bắc Hải, mộ dân ở phường Tư Chính, ở Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào, được lệnh đi thuyền ra các vùng Bắc Hải, Côn Lôn, thu lượm hóa vật. Đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản”.([1])
|
Các tác phẩm chính thức khác do Quốc Sử quán biên soạn và in dưới thời nhà Nguyễn như Đại Nam thực lục chính biên (1848), Khâm định Đại Nam hội diễn sử lệ (1843 - 1851), Đại Nam nhất thống chí (1865 - 1882), Lịch triều hiến chương loại chí (1821), Hoàng Việt địa dư chí (1833), Việt sử cương giám khảo lược (1876) đều chép tương tự về Hoàng Sa và Trường Sa. Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ quyển 165 còn khẳng định sự đánh giá của Bộ Công tâu lên Vua năm Bính Thân, niên hiệu Minh Mạng thứ 17 (1836, tức năm Đạo Quang thứ 16 đời Thanh): “Xứ Hoàng Sa thuộc cương vực mặt biển nước ta rất là hiểm yếu”. Đại Nam nhất thống chí, bộ sách địa lý lịch sử chung thống nhất của Đại Nam, phần Hình thể nói về tỉnh Quảng Ngãi “phía đông có đảo Hoàng Sa liền với biển xanh làm hào che…”. Đó đều là các nguồn chính thức và có giá trị chân thực.
Viện Hán Nôm Hà Nội còn lưu trữ hàng chục châu bản triều Nguyễn gồm các bản tấu, phúc tấu của các Bộ Công, Bộ Hộ, các cơ quan khác, các dụ của các vua về các hoạt động thực thi chủ quyền của VN trên quần đảo.
Một số bản đồ VN vẽ các đảo này như bộ phận của lãnh thổ VN, nhất là Đại Nam nhất thống toàn đồ (1838). Ngoài ra các sách địa lý lịch sử như Sử học bị khảo của Đặng Xuân Bảng, Địa dư toát yếu (niên hiệu Duy Tân 1907-1916), Quảng Thuận đạo sử tập, Trung kỳ địa dư lược, Quảng Ngãi tỉnh chí đều có những đoạn văn và bản đồ xác nhận Hoàng Sa thuộc Quảng Ngãi. Trong gia phả của các họ Phạm, họ Đặng trên đảo Lý Sơn còn lưu giữ các sắc chỉ của vua Minh Mạng giao cho dòng họ chọn những thanh niên khỏe mạnh và giỏi bơi lội để gia nhập đội Hoàng Sa... ([2])
TS Nguyễn Hồng Thao
[1] Đại Nam thực lục tiền biên, NXB Sử học, Hà Nội, 1962, t.1, tr.22
[2] “Phát hiện tài liệu quý liên quan đến quần đảo Hoàng Sa”, Lao Động số 71 ngày 1.4.2009.
>> Kỳ 8: Đi đến luận cứ chắc chắn
Bình luận (0)