Ngôi làng không trẻ sơ sinh suốt 25 năm và hồi chuông cảnh báo cho Nhật Bản

19/03/2023 15:01 GMT+7

Một số người lo ngại Nhật Bản đang lao tới điểm không thể quay đầu, khi số lượng phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đạt mức thấp nghiêm trọng dẫn tới việc không có cách nào để đảo ngược xu hướng suy giảm dân số.

Khi Kentaro Yokobori chào đời cách đây gần 7 năm, cậu bé là đứa trẻ đầu tiên sinh ra ở làng Kawakami sau 25 năm. Sự việc này giống như một phép màu đối với nhiều người dân làng.

Nhiều người đã đến thăm cha mẹ của cậu bé, chị Miho và anh Hirohito, trong hơn một tuần – gần như tất cả đều là người già, trong đó có một số người đi lại khó khăn.

“Những người lớn tuổi rất vui khi thấy [Kentaro], và một cụ bà chống gậy, gặp khó khăn khi leo cầu thang, đã đến nhà tôi để bế con tôi trong tay. Tất cả những người lớn tuổi thay phiên nhau bế con tôi”, chị Miho kể lại với CNN.

Ngôi làng không trẻ sơ sinh suốt 25 năm và hồi chuông cảnh báo cho Nhật Bản - Ảnh 1.

Gia đình chị Miho, anh Hirohito và bé Kentaro

CHỤP MÀN HÌNH CNN

Trong một phần tư thế kỷ không có đứa trẻ nào ra đời, dân số trong làng đã giảm hơn một nửa, chỉ còn 1.150 người, do người trẻ rời đi trong khi người già qua đời. Nhiều ngôi nhà bị bỏ hoang, một số bị động vật hoang dã xâm chiếm. Cách đây 40 năm, dân số của làng là 6.000 người.

Kawakami chỉ là một trong vô số những thị trấn và làng mạc nhỏ ở nông thôn đã bị lãng quên và bỏ lại khi những người trẻ tuổi tìm đến thành phố. Hơn 90% người Nhật hiện đang sống ở các khu vực đô thị như Tokyo, Osaka và Kyoto, theo CNN.

Hai học sinh cuối cùng tốt nghiệp, trường học Nhật Bản phải đóng cửa

Điều đó đã khiến các khu vực nông thôn và các ngành như nông nghiệp, lâm nghiệp và trồng trọt phải đối mặt với tình trạng thiếu lao động nghiêm trọng và tình trạng này có thể sẽ trở nên tồi tệ hơn trong những năm tới khi lực lượng lao động già đi. Đến năm 2022, số người làm việc trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp giảm xuống còn 1,9 triệu người, so với 2,25 triệu người của 10 năm trước đó.

Tuy nhiên, câu chuyện ở Kawakami phản ánh một vấn đề không chỉ tồn tại ở vùng nông thôn Nhật Bản. Vấn đề đối với Nhật Bản là: người dân ở các thành phố cũng không sinh con.

"Thời gian không còn nhiều cho việc sinh đẻ"

"Thời gian không còn nhiều cho việc sinh đẻ", Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida phát biểu trong một cuộc họp báo gần đây. Những câu khẩu hiệu như vậy dường như cho đến nay vẫn chưa truyền cảm hứng cho các thị dân vốn chiếm đa số trong thành phần cư dân của đất nước mặt trời mọc. Đầu năm nay, ông từng cảnh báo đất nước “đang đứng bên bờ vực không thể duy trì các chức năng xã hội”.

Nhật Bản có 799.728 ca sinh vào năm 2022, mức thấp nhất được ghi nhận, giảm gần 50% so với 1,5 triệu ca sinh vào năm 1982. Tổng tỷ suất sinh - số trẻ trung bình mà một phụ nữ sinh ra trong độ tuổi sinh sản - của Nhật Bản đã giảm xuống còn 1,3 - kém xa so với mức 2,1 cần thiết để duy trì dân số ổn định. Số người qua đời đã vượt xa số người chào đời trong hơn một thập niên.

Và nếu không tính số lượng người nhập cư – người nước ngoài chỉ chiếm 2,2% dân số Nhật Bản vào năm 2021 (tỷ lệ này ở Mỹ là 13,6%) – một số người lo ngại Nhật Bản đang lao tới điểm không thể quay đầu, khi số lượng phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đạt mức thấp nghiêm trọng mà từ đó không có cách nào để đảo ngược xu hướng suy giảm dân số.

Tất cả những điều này đã khiến các nhà lãnh đạo của nền kinh tế lớn thứ ba thế giới phải đối mặt với nhiệm vụ khó khăn là đảm bảo lương hưu và chăm sóc sức khỏe cho số lượng người già ngày càng phình to ngay cả khi lực lượng lao động ngày càng thu hẹp.

Trong khi đó, lối sống đô thị bận rộn và thời gian làm việc dài khiến người Nhật có ít thời gian để lập gia đình, và chi phí sinh hoạt ngày càng tăng cũng có nghĩa là việc sinh và nuôi một đứa con đơn giản đã trở nên quá đắt đỏ đối với nhiều người trẻ tuổi. Đó là chưa kể những cấm kị xung quanh việc nói về khả năng sinh sản và các chuẩn mực trong một xã hội trọng nam khinh nữ khiến nhiều bà mẹ gặp khó khăn nếu muốn quay trở lại làm việc.

Bác sĩ Yuka Okada, giám đốc Phòng khám Grace Sugiyama ở Tokyo, cho biết rào cản văn hóa khiến việc nói về khả năng sinh sản của phụ nữ thường bị giới hạn. "(Mọi người nghĩ chủ đề này) là chuyện có phần xấu hổ. Hãy nghĩ về cơ thể của bạn và nghĩ về (điều gì sẽ xảy ra) sau khi sinh. Rất quan trọng. Vì vậy, đây không phải là chuyện xấu hổ", vị bác sĩ nói.

Bác sĩ Okada là một trong những bà mẹ đi làm hiếm hoi ở Nhật Bản có sự nghiệp thành công rực rỡ sau khi sinh con. Nhiều phụ nữ có trình độ học vấn cao của Nhật Bản bị chuyển sang làm công việc bán thời gian hoặc bán lẻ – nếu họ tái gia nhập thị trường lao động. Theo OECD, vào năm 2021, 39% lao động nữ làm các công việc bán thời gian, trong khi tỷ lệ này với nam giới là 15%.

Tokyo hy vọng sẽ giải quyết được một số trong những vấn đề nói trên để những phụ nữ đi làm hôm nay sẽ trở thành những bà mẹ đi làm vào ngày mai. Chính quyền thành phố đang bắt đầu trợ cấp cho việc đông lạnh trứng để phụ nữ có cơ hội mang thai thành công cao hơn nếu họ quyết định sinh con sau này.

Các bậc cha mẹ mới ở Nhật Bản đã nhận được "tiền trợ cấp nuôi con" hàng ngàn USD để trang trải chi phí y tế. Đối với người độc thân? Một dịch vụ hẹn hò sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) và được nhà nước tài trợ.

Tiếng chuông báo động

Liệu các biện pháp như vậy có thể xoay chuyển tình thế, dù là ở thành thị hay nông thôn, là điều vẫn chưa thể khẳng định. Song ở vùng nông thôn, làng Kawakami là một câu chuyện mang tính cảnh báo về những gì có thể xảy ra nếu chiều hướng suy giảm dân số không được đảo ngược.

Cùng với dân số giảm, nhiều nghề thủ công và lối sống truyền thống có nguy cơ bị mai một.

Trong số những người dân làng thay phiên nhau bế cậu bé Kentaro có ông Kaoru Harumashi, một cư dân lâu đời của làng Kawakami, ở độ tuổi 70. Người thợ mộc bậc thầy đã có mối quan hệ thân thiết với cậu bé, dạy cậu cách chạm khắc gỗ tuyết tùng địa phương từ những khu rừng xung quanh.

Ngôi làng không trẻ sơ sinh suốt 25 năm và hồi chuông cảnh báo cho Nhật Bản - Ảnh 2.

Ông Kaoru Harumashi tại xưởng mộc

CHỤP MÀN HÌNH CNN

"Cậu bé gọi tôi là ông nội, nhưng nếu một người ông thực sự sống ở đây, cậu bé sẽ không gọi tôi là ông nội... Cháu trai tôi sống ở Kyoto và tôi không được gặp cháu thường xuyên. Tôi có lẽ cảm thấy có nhiều tình cảm hơn với Kentaro, người mà tôi gặp thường xuyên hơn, mặc dù chúng tôi không có quan hệ huyết thống", ông nói.

Cả hai người con trai của ông Harumashi đã rời làng từ nhiều năm trước, giống như nhiều cư dân nông thôn trẻ tuổi khác ở Nhật Bản.

Khi gia đình Yokobori chuyển đến làng Kawakami khoảng một thập niên trước, họ không biết rằng hầu hết cư dân đều đã qua tuổi nghỉ hưu. Trong những năm qua, họ đã chứng kiến những người bạn lớn tuổi qua đời và truyền thống cộng đồng lâu đời dần bị mai một.

"Không có đủ người để duy trì các làng, cộng đồng, lễ hội và các tổ chức đoàn thể khác, và việc này đang trở nên bất khả thi", chị Miho cho biết.

Bỏ phố về làng

Nếu điều đó nghe có vẻ đáng buồn, thì có lẽ đó là vì trong những năm gần đây, cuộc chiến nhằm tăng tỷ lệ sinh của Nhật Bản không mang lại nhiều lý do để lạc quan.

Tuy nhiên, có thể thấy rõ một tia hy vọng nhỏ nhoi trong câu chuyện về gia đình Yokobori. Sự ra đời của Kentaro là bất thường không chỉ vì cả làng đã chờ đợi quá lâu mà còn vì bố mẹ cậu bé đã chuyển từ thành phố về nông thôn – trái ngược với xu hướng hàng thập niên qua, trong đó giới trẻ chọn sự tiện lợi 24/7 của cuộc sống đô thị ở Nhật Bản.

Một số cuộc khảo sát gần đây cho thấy ngày càng nhiều người trẻ như chị Miho cân nhắc chuyển đến sống ở nông thôn, bởi chi phí sinh hoạt thấp, không khí trong lành và lối sống ít căng thẳng mà nhiều người coi là quan trọng để lập gia đình. Một nghiên cứu về cư dân ở khu vực Tokyo cho thấy 34% số người được hỏi bày tỏ mong muốn chuyển đến sống ở nông thôn, tăng từ 25,1% vào năm 2019. Trong số những người ở độ tuổi 20, có tới 44,9% bày tỏ sự quan tâm.

Vợ chồng Yokobori nói rằng việc lập gia đình sẽ khó khăn hơn nhiều - về mặt tài chính cũng như về mặt cá nhân - nếu họ vẫn sống ở thành phố. Họ đã quyết định rời thành phố sau thảm kịch động đất - sóng thần - hạt nhân ở đông bắc Nhật Bản vào ngày 11.3.2011. Chị Miho lúc đó là một nhân viên văn phòng ở Tokyo. Chị vẫn nhớ cảm giác bất lực trong cuộc sống hàng ngày ở thành phố lớn nhất Nhật Bản.

"Mọi người đều hoảng loạn, vì vậy nó giống như một cuộc chiến, mặc dù tôi chưa bao giờ trải qua chiến tranh. Giống như có tiền mà không mua được nước vậy. Tất cả các phương tiện giao thông đều ngừng hoạt động, vì vậy bạn không thể đi lại. Tôi cảm thấy vô cùng yếu ớt", chị nhớ lại.

Thảm kịch đó là khoảnh khắc thức tỉnh đối với chị Miho và anh Hirohito, lúc đó đang làm thiết kế đồ họa. "Những thứ mà tôi từng dựa vào đột nhiên trở nên không đáng tin cậy, và tôi cảm thấy rằng mình thực sự đang sống ở một nơi rất không ổn định. Và tôi cảm thấy tôi phải tự mình tìm ra một nơi ổn định để sống", anh nói.

Cặp đôi đã tìm thấy nơi đó ở một trong những vùng xa xôi nhất của Nhật Bản, tỉnh Nara. Đó là vùng đất của những ngọn núi hùng vĩ và những thị trấn nhỏ bé, ẩn mình dọc theo những con đường quanh co bên dưới những cây tuyết tùng cao chót vót, cao hơn hầu hết các tòa nhà.

Họ bỏ việc ở thành phố và chuyển đến một ngôi nhà đơn sơ trên núi, nơi họ mở dịch vụ lưu trú chỉ phục vụ bữa sáng nhỏ. Anh Hirohito đã học nghề mộc và chuyên sản xuất thùng gỗ tuyết tùng cho các nhà máy rượu sake của Nhật Bản. Chị Miho là một người nội trợ toàn thời gian. Họ nuôi gà, trồng rau, chặt củi và chăm sóc Kentaro, cậu bé sắp vào lớp một.

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.