Thơ bốn câu lời ít ý nhiều, sâu xa, có khi gây bất ngờ cho cảm xúc người đọc, đang được nhà thơ Nguyên Hùng (Ủy viên BCH Hội Nhà văn TP.HCM) khai thác triệt để.
Thơ anh có những câu kết khó đoán trước, có bài ta phải suy ngẫm mới thấy cái hay, cái lạ của tứ thơ. “Thiên hạ đua nhau lùng số đẹp/Từ số xe số điện thoại số nhà/Ta dễ tính gặp số nào cũng duyệt…”. Đọc đến câu thứ ba này tưởng như đã bắt gặp ý tưởng của thơ. Nhưng câu cuối: “Nên trời đì bắt số đào hoa”. Cái lạ, cái bất ngờ ở câu cuối tạo nên giá trị thẩm mỹ cao. Khi thơ anh kể chuyện câu cá: “Buông câu anh đứng em ngồi/Dăm con cá nhỏ đủ cười ngả nghiêng/Niềm vui chung bến chung thuyền/Hồn nhiên giản dị, bạc tiền khó mua”. Hồn bài thơ ở câu thứ ba. Chuyện câu cá đã tự nó chuyển hóa thành niềm vui vì mối tình chung thủy.
|
Thơ bốn câu của Nguyên Hùng thường chia hai vế, ít khi một chiều thuận mà hay gây trái ngược để tạo bất ngờ cho cảm xúc. Thơ bốn câu đòi hỏi phải có cấu trúc nghệ thuật chặt chẽ, súc tích mà gợi cảm đột biến. Vì vậy mà nhà thơ luôn thành công trong suốt tập thơ. Trong 108 đoản khúc thơ, anh còn chịu khó “bươn chải” nhiều nơi. Mỗi địa danh anh đến đều mang về cho anh những cảm xúc ấn tượng. Khác với tầm nhìn thơ xưa không từ trực cảm mà từ tâm thức và ý tưởng. Cùng đọc bài Khi ta làm thơ, rằng: “Khi ta uống rượu cùng trăng/Ngoài kia người lính gồng căng hết mình/Khi ta ngồi viết thơ tình/Ngoài kia biển cháy thái bình lâm nguy”. Đó là nỗi trăn trở của nhà thơ với Tổ quốc, được coi là ý tưởng chủ đề khi cầm bút.
Cũng như các nhà thơ luôn lấy thiên nhiên làm không gian tâm trạng, Nguyên Hùng đã thả hồn mình vào trăng, gió, mây, mưa, đồi cao, suối thẳm, miền xuôi, miền ngược cho đến biển cả mênh mông, sóng bạc rì rào… Nhưng luôn đau đáu về miền Trung hằng năm phải “Oằn vai gánh chịu bất công của trời”. Khi thăm lại chiến trường xưa thì “Ngược thời lửa đạn tìm nhau những ngày”. Đến thăm nghĩa trang Trường Sơn: “Bao nỗi niềm bia đá cũng rưng rưng”. Chi tiết nhân hóa này chưa thấy bao giờ. Sự liên kết trong thi pháp không gian và thời gian tạo nên hình tượng hài hòa đậm chất thơ. Song có những bài giữa không gian, thời gian vật lý lại có khi ngược lại với không gian, thời gian tâm lý. Nhờ đó mà gây bất ngờ tứ thơ: “Ngày tẻ nhạt dù vang bao câu hát/Đêm ồn ào không xua nổi cô đơn” (Ngậm ngùi) hay “Mê mải phố để vầng trăng đi lạc/Đến bạc đầu còn tiếc nuối ăn năn” (Lơ đãng).
Có những bài nghe như kể chuyện theo mô típ thơ trình diễn – tân hình thức mà rất thơ: “Đôi khi chợt ước vu vơ/Được làm nụ súng hé chờ giọt sương/Đôi khi ghen cả cánh chuồn/Nhởn nhơ tìm bạn không buồn không lo/Đôi khi lỡ một chuyến đò/Cả đời vô vọng ngóng chờ qua sông/Đôi khi lỡ chạm gai hồng/Giật mình chợt nhớ mình trồng phong lan” (Đôi khi). Chuyện “ước, ghen, lỡ” quá đơn giản mà ý lại sâu xa cho người thưởng thực.
Có những cảm xúc mang sắc thái trữ tình, lãng mạn nghe sao mà êm dịu, quyến rũ. “Mỗi lần đến với Hà Tiên/Ngắm thêm hương vị của miền biển Tây/Mặt trời ôm biển trọn ngày/Chiều còn ngụp lặn đắm say đêm dài” (Hà Tiên). Bốn câu mà thành một bức tranh thiên nhiên với không gian và thời gian mơ mộng cho thơ.
Thơ tình yêu mang màu sắc cách tân, hiện đại
Trong trào lưu thơ mới trước 1945 đã một thời dài dậy sóng thơ tình, nào Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Bính… Dù đã cách tân nhưng vẫn pha màu truyền thống cổ điển. Thơ tình yêu của Nguyên Hùng mang màu sắc cách tân, hiện đại. Lời thơ gọn, không rủ rê mà say đắm. Cái say đắm có lúc như nói “liều” mà lại rất nhân văn, thương chứ không trách quá lời.
Có nhiều bài cùng ý tưởng nhưng kết cấu nghệ thuật khác nhau. Đọc Sóng ngầm: “Biển đẹp nhường này, em trốn đâu/Gọi em khản cả tiếng còi tàu/Phải em hóa sóng ngầm đáy biển/Bất chợt xô anh đến bạc đầu”. Đứng trước biển người ta thì có người yêu bên cạnh, còn anh trơ trọi nên càng nhớ người yêu. Đó là hiện thực. Nhưng có thật “Gọi em khản cả tiếng còi tàu”? Từ tâm lý chờ mong quá đỗi, mất hy vọng nên thả một vần thơ như “nói liều” cho đỡ cơn nhớ. “Phải em hóa sóng ngầm đáy biển” rồi “Bất chợt xô anh đến bạc đầu”. Chỉ mấy từ: biển đẹp, trốn, gọi khản tiếng, sóng ngầm, xô mà tạo nên tứ thơ vừa hiện thực, vừa lãng mạn trong siêu thực. Khi đọc những bài này người ta sẽ liên tưởng: “Thơ là điệu hồn đi tìm những hồn đồng điệu”. Nhiều bài đã xây dựng ấn tượng như vậy.
|
Đọc xong 108 đoản khúc thơ, ta cảm nhận như tác giả đang xây dựng một thể thơ khám phá vào hiện thực nên nhiều bài được vận dụng tu từ ẩn dụ, so sánh, đối lập mà đồng nhất… và có dấu hiệu của chủ nghĩa hình tượng tạo dáng thơ có chiều sâu, tiềm ẩn. Tiềm ẩn đến bất ngờ.
Trên 20 năm sống hết lòng với thơ, Nguyên Hùng đã cho ra đời 6 đứa con tinh thần đáng giá. Đến thời điểm này, nhà thơ đã có trên 90 ca khúc phổ thơ với nhiều ca khúc được các đài truyền hình trung ương và địa phương phát sóng. Trong số đó, có tác phẩm được bình chọn là một trong những ca khúc phổ thơ yêu thích của VTV3, nhiều ca khúc được các ca sĩ chọn biểu diễn và đưa vào album. Thơ anh cũng được VOH và một số kênh truyền hình chọn giới thiệu. Mừng cho những đứa con tinh thần của nhà thơ Nguyên Hùng luôn được độc giả đón nhận và tin yêu.
Bình luận (0)