Trả lời:
Chào bạn,
Theo Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại điều 248 và điều 249 của Bộ luật Hình sự thì đánh bạc trái phép là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp.
Người nào đánh bạc trái phép mà thua bằng tiền, hiện vật có giá trị từ 2 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc theo Khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (BLHS). Tuy nhiên, để xử lý hình sự thì phải xác định được tổng số tiền, hiện vật đối với từng người đánh bạc (bao gồm tiền, hiện vật dùng đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc; thu giữ được trong người các con bạc và những nơi khác mà có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc). Không được tính tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của tất cả các lần đánh bạc, mà phải căn cứ vào từng lần đánh bạc để xem xét; cụ thể:
Nếu tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của từng lần đánh bạc đều dưới mức dưới 2 triệu đồng thì người đánh bạc không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc;
Nếu tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của lần đánh bạc nào bằng hoặc trên 2 triệu đồng thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc đối với lần đánh bạc đó.
Như vậy, anh bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu tổng số tiền, hiện vật của lần đánh bạc nào có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên. Anh bạn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. Nếu phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; tiền, hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên; tái phạm nguy hiểm thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 3triệu đồng đến 30 triệu đồng.
Trường hợp anh bạn không đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì có thể bị xử lý theo Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình. Theo đó, người nào đánh bạc trái phép bằng một trong các hình thức như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế hoặc các hình thức khác mà được, thua bằng tiền, hiện vật thì bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng; đồng thời bị tịch thu tiền, tang vật, phương tiện vi phạm.
Cần lưu ý là không chỉ người trực tiếp tham gia đánh bài mà ngay cả những người rủ rê, lôi kéo, tụ tập người khác để đánh bạc trái phép; dùng nhà, chỗ ở của mình hoặc phương tiện, địa điểm khác để chứa bạc cũng là vi phạm pháp luật. Người vi phạm có thể bị xử lý vi phạm hành chính (phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000) hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc theo Điều 249 BLHS. Theo đó, người nào tổ chức đánh bạc trái phép với quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về tội này hoặc tội đánh bạc hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 300 triệu đồng hoặc phạt tù từ 1 năm đến 5 năm. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 100 triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Trong những dịp tất niên, lễ, tết… tình trạng đánh bạc trái phép diễn ra thường xuyên và phổ biến. Vì vậy, người dân nên nắm bắt các quy định để ngăn chặn việc bản thân, gia đình vi phạm pháp luật và phải gánh chịu những hậu quả đáng tiếc./.
Luật sư Nguyễn Văn Hậu