Trương Đăng Quế, vị quan tài năng xuất chúng

22/02/2022 06:38 GMT+7

Trương Đăng Quế tự là Diên Phương, hiệu là Đoan Trai, biệt hiệu Quảng Khê, sinh ngày 1.11 năm Quý Sửu (1793), người làng Mỹ Khê Tây, H.Bình Sơn (nay thuộc xã Tịnh Khê, TP.Quảng Ngãi), tỉnh Quảng Ngãi; là nhân vật lịch sử có ảnh hưởng đáng kể trong đời sống xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19.

Ông thi đỗ hương tiến (tương đương cử nhân sau này) khoa Kỷ Mão (1819) và là người khai khoa của phủ Quảng Ngãi, nay là tỉnh Quảng Ngãi. Sau khi thi đỗ, ông được bổ làm Hành tẩu bộ Lễ dưới triều Gia Long, đến năm Minh Mạng thứ nhất (1820) được thăng Biên tu rồi sung làm Hoàng tử trực học, trở thành 1 trong 3 thầy dạy của các hoàng tử dưới triều Minh Mạng.

Trải qua 3 triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, ông lần lượt giữ nhiều chức vụ quan trọng của triều đình: Thượng Thư bộ Binh, Cơ mật viện đại thần (1831), Chánh chủ khảo thi Hội (1833, 1838), Thượng Thư bộ Lễ (1839), Quốc sử quán Tổng tài (1841), Cần chánh điện Đại học sĩ (1848)…

Chân dung Trương Đăng Quế

TL của gia tộc

Ông từng 2 lần nhận di chiếu tôn phò tân vương, nhiều lần được nhà vua giao sứ mệnh Kinh lược đại thần thi hành các sứ vụ quan trọng của triều đình.

Kiến văn sâu rộng

Trương Đăng Quế là người có kiến văn sâu rộng, năng lực đa diện, được cả giới quan trường lẫn bách tánh nể trọng. Năm 1828, ông viết cuốn Nhật Bản kiến văn lục, là cuốn sách do người Việt Nam ghi chép về đất nước và con người Nhật Bản thuộc loại rất sớm.

Năm 1836, Trương Đăng Quế nhận nhiệm vụ tổ chức thực hiện công trình chỉnh đạc điền thổ, thiết lập địa bạ, đinh bạ ở Nam Kỳ, góp phần quan trọng trong công cuộc ổn định vùng đất mới, được người đương thời hết sức khen ngợi và người đời sau, trong đó có nhiều học giả Pháp, đánh giá là công trình đạc điền khoa học lớn nhất thế kỷ 19 ở Việt Nam.

Tác phẩm Thủy chiến tiên cơ quyết thắng ông viết năm 1840 nêu lên sự cần thiết xây dựng thủy binh, đắp thành lũy phòng ngự dọc theo ven biển đề phòng ngoại xâm. Về nội trị, trong nhiều sớ tấu dâng lên nhà vua, Trương Đăng Quế đề nghị tiết kiệm công quỹ, không xuất của kho mua hàng xa xỉ của phương Tây, chấn chỉnh, tinh giảm hàng ngũ quan lại, chú trọng bổ nhiệm, cất chức cho nhiều người có thực học, thực tài.

Về mặt văn hóa, Trương Đăng Quế từng chủ trì hoặc biên tập nhiều bộ sách địa chí, lịch sử quan trọng, thuộc vào hàng công phu nhất thời cận đại như: Đại Nam liệt truyện (Tiền biên), Đại Nam thực lục (Tiền biên), Đại Nam thực lục (Chính biên, chép đến đời vua Thiệu Trị), Hoàng Nguyễn thực lục (Tiền biên), Hoàng Nguyễn thực lục (Hậu Chánh biên)... Ông sáng tác nhiều thơ văn, tập hợp trong các tác phẩm: Học văn dư tập, Quảng Khê văn tập, Nhật Bản kiến văn lục, Sứ trình vạn lý tập…

Trương Đăng Quế là thầy dạy của hoàng tử Nguyễn Phúc Miên Tông (về sau là vua Thiệu Trị) và các hoàng thân - thi sĩ Tùng Thiện vương, Tuy Lý vương.

Không khoan nhượng kẻ thù

Khi quân Pháp xâm lược nước ta, dù là người căm ghét và tỏ rõ lập trường kiên quyết đánh đuổi kẻ thù, nhưng trong việc lựa chọn chiến lược và sách lược kháng Pháp, như hầu hết các trọng thần nhà Nguyễn, ông tỏ ra lúng túng, rơi vào thế bất lực trước những chuyển biến của thời cuộc. Tuy nhiên, Trương Đăng Quế luôn là người kiên định lập trường chủ chiến.

Hồi ký của các sĩ quan viễn chinh Pháp cũng như nhiều văn liệu còn lưu lại cho thấy Trương Đăng Quế là đối tượng mà quân xâm lược e dè và căm ghét bậc nhất trong hàng ngũ quan lại nhà Nguyễn. Tuy là bậc đại quan, được vua quan trong triều kính nể, nhưng Trương Đăng Quế luôn giữ đức thanh liêm, giản ước, xem nhẹ công danh, không tham quyền cố vị. Năm 1863, sau nhiều lần xin từ quan, ông được vua Tự Đức cho về trí sĩ. Sống những năm tháng cuối đời nơi làng quê chôn nhau cắt rốn, ông vẫn đau đáu nỗi lòng trước tình cảnh đất nước rơi vào họa xâm lăng, nhiều lần dâng thư ra Huế bày tỏ nỗi lo toan vận nước. Trương Đăng Quế mất năm 1865, di hài an táng tại quê nhà.

Ông là bề tôi lương đống của nhà Nguyễn: Lúc còn sống được phong tước Tuy Thạnh quận công, khắc tên vào cỗ súng lớn Bảo Đại định công, khi qua đời được truy phong Thái sư, ban tên thụy là Văn Lương, cho khắc vào bia mộ dòng chữ Lưỡng triều cố mệnh lương thần Trương Văn Lương chi mộ (Mộ của bề tôi giỏi chịu mệnh tiên đế phó thác qua hai triều là Trương Văn Lương). Năm 1876 (Tự Đức thứ 28) nhà vua cho phối thờ ông trong Thế miếu, nơi thờ phụng các vua nhà Nguyễn và phối thờ các đại công thần. (còn tiếp)

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.