Điều đáng tiếc là bên cạnh nhà vua là một Hội đồng Phụ chánh và những vị thượng thư mà sự già nua và an phận đã cản trở nhiều ý tưởng tiến bộ của ông. Năm 1914, nước Pháp lâm vào Thế chiến 1 (1914 - 1918), phải huy động mọi nhân, vật lực, vua Duy Tân coi đây là cơ hội tốt…
Vị vua trẻ yêu nước
Năm 1916, vua Duy Tân triệu tập các thượng thư, ra lệnh cho họ thảo một văn thư gửi Khâm sứ Pháp tại Huế, thông báo việc cử lễ bộ thượng thư cùng một thượng thư trong hoàng tộc sang Pháp yêu cầu Chính phủ Pháp xét lại các hòa ước đã ký. Các ông thượng thư chẳng những tìm cách thoái thác trách nhiệm được giao, mà còn đem chuyện đó tâu lên bà thái hậu khiến nhà vua bị mẹ rầy la thậm tệ. Lễ bộ Thượng thư Huỳnh Côn còn bày tỏ một quan điểm khá đặc biệt trong hồi ký của mình: “Tôi không giấu các bạn đồng liêu ý kiến nên đề nghị nhà vua thoái vị nếu ngài vẫn tiếp tục nuôi dưỡng những ý định như thế” (Jean Jacnal - Mémoires de son Excellence Huynh Con - Revue Indochinoise - 1-6/1924, trang 246).
Vua Duy Tân lúc mới lên ngôi (1907) |
Tình trạng đơn độc và bất đắc chí của vua Duy Tân được một nhóm các nhà ái quốc nắm rõ. Trong đó có Trần Cao Vân, người từng trải qua 5 năm tù ở Côn Đảo sau vụ Trung kỳ kháng thuế (1908 - 1913). Họ quyết định thực hiện kế hoạch tiếp cận nhà vua hầu mưu đồ đại sự. Họ bỏ tiền ra vận động cho viên tài xế của nhà vua xin nghỉ việc, rồi sau đó tìm cách cài một hội viên ưu tú của Việt Nam Quang Phục hội là Phạm Hữu Khánh vào thay chỗ viên tài xế. Khánh khéo léo thu phục cảm tình của vua, ngày nọ trao cho ông một phong thư của Trần Cao Vân, kể nỗi đau nước mất nhà tan, sự bất lực của triều đình, trong đó có câu:
Phụ hoàng hoàng đế hà tội kiến thiên?
Dực Tôn tôn lăng hà cớ kiến quật?
(Vua cha của hoàng thượng vì cớ gì mà phải đi đày? Lăng mộ vua Dực Tông [vua Tự Đức] vì cớ gì mà bị khai quật?).
Vế trên nhắc đến trường hợp cựu hoàng Thành Thái, thân phụ vua Duy Tân đã bị giam lỏng tại Cap Saint Jacques (Vũng Tàu) từ năm 1907; vế dưới nhắc chuyện Khâm sứ Pháp Mahé đã đào phá khu vực Khiêm lăng của vua Tự Đức để tìm kho báu, một việc làm mà vua Duy Tân không được biết trước.
Ít lâu sau, với sự hỗ trợ của Phạm Hữu Khánh, Trần Cao Vân và Thái Phiên giả làm người câu cá, lẻn vào Hậu hồ để gặp vua Duy Tân bàn kế hoạch khởi nghĩa. Hình ảnh những ngư ông bất đắc dĩ đó đã làm xúc động lòng người, về sau một nhà thơ nổi tiếng miền sông Hương núi Ngự là cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị đã theo đó mà sáng tác những câu hò mái nhì bất hủ:
Chiều chiều trước bến Vân Lâu/Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm?/Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông?/Thuyền ai thấp thoáng bên sông/Nghe câu mái đẩy chạnh lòng nước non…
Trong những lần gặp gỡ ấy, Trần Cao Vân và Thái Phiên tâu trình nhà vua tình hình chung cùng tiến trình chuẩn bị khởi nghĩa. Vua Duy Tân tán đồng kế hoạch, nhận lời làm minh chủ và ban mật dụ cho cuộc khởi nghĩa. Về ngày giờ khởi nghĩa, lúc đầu tính khởi sự vào giờ Ngọ, ngày Ngọ, tháng Ngọ (có lẽ cho dễ nhớ), tức ngày 8.6.1916.
Cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị (1877 - 1961), tác giả những câu hò nổi tiếng nói về vua Duy Tân |
TƯ LIỆU LÊ NGUYỄN |
Tuy nhiên, ở kinh thành lúc bấy giờ có một đội lính mộ cả ngàn người đang hướng về cuộc khởi nghĩa mà lại sắp xuống tàu sang Pháp nên vua Duy Tân muốn tiến hành sớm hơn để họ có dịp tham gia. Do đó,
ông quyết định khởi nghĩa vào ngày 3.5.1916, sớm hơn dự định của nhóm Trần Cao Vân hơn một tháng.
Dù vậy, kế hoạch khởi nghĩa cũng được bàn soạn kỹ lưỡng, khởi phát từ Huế rồi lan đến các tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, chiếm giữ cửa bể Đà Nẵng để mở đường giao thông với nước Đức. Mỗi nhà cách mạng nhận trách nhiệm lãnh đạo việc đánh chiếm một tỉnh, riêng Trần Cao Vân và Thái Phiên thì lo việc đưa vua Duy Tân ra khỏi kinh thành tạm thời để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa.
Tuy nhiên, khi kế hoạch chưa thực sự tiến hành thì tin tức đã bị lọt ra ngoài và đến tai viên Khâm sứ Charles. Viên chức này bề ngoài làm ra vẻ không biết gì, nhưng ra mật lệnh cho công sứ các tỉnh phòng bị nghiêm nhặt, và nếu cần thì tạm thời giải giới các đội lính An Nam. Trong thời gian đó, các đơn vị đi tuần tiễu chỉ còn có lính Pháp, không thấy lính An Nam đâu cả. Hiện tượng này làm chột dạ các nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở các tỉnh, song do bộ phận đầu não tại Huế không phổ biến lệnh nào khác nên họ vẫn theo kế hoạch định sẵn.
(còn tiếp)
Bình luận (0)