Trong dòng chảy mạnh mẽ của chuyển đổi số, khi công nghệ đang thay đổi căn bản cách con người tiếp cận tri thức, di sản Hán Nôm, được ví như "bộ nhớ văn hóa" của cộng đồng, đứng trước nguy cơ mai một.

Các nhà nghiên cứu ở Quy Nhơn (Gia Lai) trong một chuyến đi tìm hiểu tư liệu Hán Nôm ở vùng đất Bình Định
ẢNH: LÂM TRƯỜNG ĐỊNH
Làm thế nào để đánh thức "bộ nhớ văn hóa" Hán Nôm trong bối cảnh mới là vấn đề được các nhà nghiên cứu, nhà quản lý và giới chuyên môn thảo luận tại tọa đàm khoa học "Giải pháp bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Hán Nôm ở tỉnh Gia Lai", do Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Gia Lai tổ chức ngày 27.12.
Di sản Hán Nôm: lặng lẽ nhưng bền bỉ
Không ồn ào như các di tích hữu hình, di sản tư liệu Hán Nôm âm thầm tồn tại suốt hàng trăm năm, lưu giữ lịch sử mở đất, quá trình hình thành làng xã, đời sống tinh thần và tín ngưỡng của cộng đồng.
Theo ông Lâm Trường Định, Giám đốc Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Gia Lai, vùng đất Gia Lai ngày nay được hình thành từ sự chồng lớp văn hóa tỉnh Bình Định cũ và không gian Tây nguyên của tỉnh Gia Lai cũ. Kho tư liệu Hán Nôm tại đây không lớn về số lượng nhưng mang giá trị đặc thù, phản ánh sinh động quá trình giao thoa văn hóa giữa người Việt, người Chăm và các tộc người bản địa.
Trước khi chữ quốc ngữ phổ biến, chữ Hán và chữ Nôm là phương tiện chủ yếu để ghi chép tri thức. Từ sắc phong, chiếu chỉ, địa bạ, gia phả, hương ước, văn tế đến hoành phi, câu đối, minh văn trên bia đá, chuông đồng…, tất cả đều là những "mảnh ghép ký ức" góp phần hình thành "bộ nhớ văn hóa" Hán Nôm của từng làng xã, dòng họ và vùng đất.

Ông Lâm Trường Định, Giám đốc Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Gia Lai, phát biểu tại tòa đàm
ẢNH: HOÀNG TRỌNG
Nhóm nghiên cứu Trường ĐH Quy Nhơn (TS Võ Minh Hải, TS Nguyễn Công Thành, Th.S Nguyễn Văn Hòa) cho biết, tại vùng đất Bình Định, di sản Hán Nôm rất đa dạng: từ sắc phong, văn bản hành chính thời Tây Sơn, triều Nguyễn đến địa bạ, gia phả, hoành phi, câu đối, minh văn bia đá, chuông đồng. Trong đó, nổi bật là kho tư liệu Phật giáo, kinh sách và thi kệ của các dòng thiền lớn như Lâm Tế, Liễu Quán.
Sau năm 1975, công tác sưu tầm, nghiên cứu và bảo tồn di sản Hán Nôm tại Bình Định được quan tâm bài bản. Đặc biệt, giai đoạn 2011 - 2024, các đơn vị chuyên môn đã sưu tầm được khối lượng tư liệu đáng kể, gồm 247 sắc phong và chiếu chỉ; 1.192 tài liệu Hán Nôm về gia phả, tộc phả, văn khế ruộng đất; 105 tư liệu về di tích văn hóa; 173 tài liệu mộc bản; 711 tờ châu bản triều Nguyễn và 96 bản đồ địa giới hành chính các huyện, xã trên địa bàn tỉnh Bình Định. Toàn bộ tư liệu hiện được lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Bình Định (nay là Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Gia Lai).

Sắc phong năm Tự Đức 29 (1876) được con cháu họ Trần (P.Tam Quan, Gia Lai; thuộc TX.An Nhơn, Bình Định cũ) lưu giữ
ẢNH: TRUNG TÂM LƯU TRỮ GIA LAI
Sắc phong - dấu ấn mở đất
Ở khu vực tây Gia Lai (thuộc tỉnh Gia Lai cũ), TS Lưu Hồng Sơn (công tác tại Bảo tàng Pleiku) cho biết hiện còn lưu giữ 26 đạo sắc phong thần tại 11 đình làng, niên đại từ thời Tự Đức đến Bảo Đại. Bên cạnh đó, khoảng 20 sắc phong dành cho những người có công đang được bảo quản tại các tư gia của những dòng họ sinh sống lâu đời như họ Nguyễn, họ Trần, họ Văn, họ Tô.
Các sắc phong thần tập trung chủ yếu ở hai địa phương giáp ranh đông Gia Lai (tỉnh Bình Định cũ), gồm 15 sắc tại 7 làng ở An Khê và 11 sắc tại 4 làng ở Đak Pơ, gắn với 13 vị thần được triều đình chính thức công nhận.

Một tư liệu Hán Nôm được trưng bày tại Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Gia Lai
ẢNH: HOÀNG TRỌNG
Riêng nhóm sắc phong cho những người có công tập trung nhiều ở An Khê, có niên đại từ thời Gia Long đến Bảo Đại, phản ánh vai trò của các dòng họ trong hoạt động quân sự, hành chính và dân sinh dưới triều Nguyễn. Đây là nguồn tư liệu quý về di sản Hán Nôm để làm rõ lịch sử di cư, lập làng và mở rộng không gian cư trú của người Kinh lên cao nguyên Gia Lai.
Số hóa: cơ hội nhưng không phải "đũa thần"
Dù mang giá trị vô giá, di sản Hán Nôm đang đối mặt nhiều thách thức: khí hậu nóng ẩm, côn trùng, điều kiện bảo quản hạn chế và nhận thức cộng đồng chưa đầy đủ khiến nhiều tư liệu xuống cấp. Đáng lo ngại hơn là khoảng cách giữa lưu trữ và phát huy. Khi văn bản chưa được "giải mã" bằng ngôn ngữ đương đại, di sản vẫn chỉ tồn tại trong phạm vi hẹp của giới chuyên môn.
Tại tọa đàm, các chuyên gia thống nhất rằng ứng dụng công nghệ số là hướng đi tất yếu để đánh thức di sản Hán Nôm, nhưng số hóa không phải là "đũa thần". TS Võ Minh Hải đề xuất xây dựng thư viện số chuyên biệt về tư liệu Hán Nôm Phật giáo và hát bội Bình Định; thiết kế bản đồ di sản số tích hợp GIS, AR phục vụ giáo dục và du lịch văn hóa; triển khai dự án AI nhận dạng, phiên âm, dịch thuật Hán Nôm; phát triển các kênh YouTube, podcast kể chuyện di sản bằng ngôn ngữ hiện đại.

TS Võ Minh Hải (Trường ĐH Quy Nhơn) phát biểu
ẢNH: HOÀNG TRỌNG

TS Nghiêm Kỳ Hồng, nguyên Phó cục trưởng Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước, phát biểu tại tọa đàm
ẢNH: HOÀNG TRỌNG
Nhóm các nhà nghiên cứu Trường ĐH Quy Nhơn đề xuất xây dựng mô hình “Trung tâm tri thức Hán Nôm liên thông”, trong đó Trường ĐH Quy Nhơn giữ vai trò hạt nhân học thuật, còn các bảo tàng, thư viện và trung tâm lưu trữ là những đầu mối giữ nguồn tư liệu. Theo mô hình này, việc liên thông không chỉ dừng ở chia sẻ dữ liệu, mà còn mở rộng sang liên thông quy trình kiểm kê thống nhất, xác lập thứ tự ưu tiên bảo tồn, chuẩn hóa số hóa - mô tả tư liệu, cơ chế cấp quyền khai thác và xây dựng các sản phẩm phục vụ công chúng, qua đó từng bước đưa di sản Hán Nôm ra khỏi “kho kín” để đến gần hơn với đời sống xã hội.
Còn TS Nghiêm Kỳ Hồng, nguyên Phó cục trưởng Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước, cho rằng cần sớm hoàn thiện cơ chế chính sách về sưu tầm, khen thưởng, định giá tài liệu hiến tặng; tăng cường phối hợp giữa các sở, ngành; thành lập các nhóm chuyên gia dịch thuật, tu bổ và công bố tư liệu Hán Nôm…
Bình luận (0)