Hoàng Đình Kinh (còn gọi là Cai Kinh), người dân tộc Tày, sinh năm 1830 tại xã Hòa Lạc, tổng Thuốc Sơn, châu Hữu Lũng, phủ Lạng Thương, tỉnh Bắc Giang (nay thuộc xã Cai Kinh, tỉnh Lạng Sơn) trong một gia đình khá giả. Cha ông là Hoàng Đình Khoa, làm cai tổng Thuốc Sơn. Sau khi cha mất, ông thay cha làm cai tổng nên còn có tên gọi là Cai Kinh.

Núi Cai Kinh, nơi thủ lĩnh nghĩa quân Hoàng Đình Kinh xây dựng căn cứ kháng Pháp
ẢNH: TRƯƠNG HẰNG
Từ nhỏ, Hoàng Đình Kinh đã sớm biểu lộ nghĩa khí, thường bênh vực dân lành. Thời ông còn trẻ, thổ phỉ bên Trung Quốc thường tràn sang cướp bóc vùng biên giới Tây Bắc nước ta, ông tập hợp trai tráng trong vùng tập luyện võ nghệ, tổ chức canh phòng, đánh đuổi chúng để bảo vệ dân làng, dần hình thành một đội quân được tổ chức chặt chẽ, kiểm soát cả một vùng rộng lớn ở phủ Lạng Thương. Sau đó, Hoàng Đình Kinh đồng ý đứng vào hàng ngũ triều đình, tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp, được phong chức Tri huyện Hữu Lũng.
Tháng 3.1884, sau khi chiếm được thành Bắc Ninh, Pháp đưa một cánh quân tiến đánh Lạng Sơn, nhưng bị quân Hoàng Đình Kinh chặn đánh quyết liệt ở Hữu Lũng nên phải rút về Bắc Ninh.
Sau khi hòa ước Thiên Tân được ký kết, quân Thanh triệt thoái, Pháp đưa quân từ phủ Lạng Thương kéo lên tiếp quản Lạng Sơn, Thất Khê và Cao Bằng. Nghĩa quân của Hoàng Đình Kinh phối hợp với cánh quân chống Pháp của Nguyễn Thiện Thuật, Tạ Hiên, Phạm Huy Quang phục kích ở cầu Quan Âm - Sông Hóa gây thiệt hại nặng nề cho quân Pháp. Sau trận đánh này, uy thế quân Hoàng Đình Kinh lên cao. Nhiều cánh nghĩa binh hội quân với ông, trong đó có nghĩa binh của Trương Văn Thám, chính là Hoàng Hoa Thám (Đề Thám) sau này.
Xuất quỷ nhập thần đánh địch
Tháng 7.1885, sau sự kiện kinh đô thất thủ, vua Hàm Nghi ban chiếu Cần Vương, kêu gọi sĩ phu và nhân dân cả nước đứng lên đánh đuổi quân xâm lược. Đội quân của Hoàng Đình Kinh nhanh chóng đứng vào hàng ngũ lực lượng Cần Vương. Ông đã chọn núi Tinh Lãng làm căn cứ chính.

Hữu Lũng ngày nay
ẢNH: NGUYỄN MINH ĐỨC
Dưới sự lãnh đạo của Hoàng Đình Kinh, nghĩa quân tích cực hoạt động, dựa vào địa thế núi rừng hiểm trở để xây dựng căn cứ và tiến hành chiến tranh du kích. Họ tổ chức nhiều cuộc tấn công, tiêu diệt đồn địch, phục kích các toán quân Pháp, chặn đánh các đoàn vận chuyển lương thực, vũ khí, gây tổn thất đáng kể cho kẻ địch.
Cuối năm 1885, Pháp tăng cường quân số và hỏa lực, đánh chiếm nhiều nơi của tỉnh Lạng Sơn. Trước tình hình đó, nghĩa quân Hoàng Đình Kinh chuyển vào vùng Tam Yên - Hữu Lũng lập căn cứ, xuất quỷ nhập thần đánh địch ở khắp nơi. Suốt 2 năm 1885 - 1886, các tướng lĩnh của nghĩa quân là Cai Bình, Cai Hai (em Cai Kinh), Hoàng Quế Thọ, Hoàng Thái Nam, Hoàng Thái Nhân liên tục tấn công địch ở khắp vùng khiến quân Pháp chịu nhiều thiệt hại.
Bước sang năm 1887, quân Pháp lại mở nhiều cuộc càn quét quy mô lớn vào trung tâm căn cứ của Hoàng Đình Kinh, nhưng nghĩa quân dựa vào địa thế núi rừng hiểm trở làm phá sản âm mưu này.
Không khuất phục được bằng vũ lực, thực dân Pháp dùng thủ đoạn mua chuộc, chia rẽ hàng ngũ nghĩa quân. Sau nhiều năm nếm mật nằm gai, chiến đấu kiên cường, thủ lĩnh nghĩa quân Hoàng Đình Kinh phải đối diện với nhiều khó khăn, bất trắc. Ông bị thực dân Pháp bắt ở biên giới Việt - Trung và đem xử tử ngày 6.7.1888.

Hội thảo về khởi nghĩa Hoàng Đình Kinh, tháng 3.2021
ẢNH: TƯ LIỆU
Trong tham luận trình bày tại Hội thảo khoa học Các tư liệu, bài viết về thân thế, sự nghiệp Hoàng Đình Kinh do Sở VH-TT-DL Lạng Sơn phối hợp với dòng họ Hoàng (Lạng Sơn), Hội Khoa học lịch sử và Bảo tàng Lịch sử quốc gia VN tổ chức vào tháng 4.2013, PGS-TS Chương Thâu (Viện Sử học VN) đã viết: "Cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Cai Kinh tuy bị thất bại, nhưng đã để lại cho chúng ta tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí kiên cường bất khuất của người anh hùng Hoàng Đình Kinh và của biết bao nghĩa binh vô danh. Cuộc khởi nghĩa kéo dài cả chục năm trời đã nêu cao tinh thần đoàn kết các dân tộc trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm của toàn dân tộc ta nói chung và của Xứ Lạng nói riêng. Nhân dân ta đầy lòng sùng ái vị anh hùng liệt sĩ Hoàng Đình Kinh và khẳng định công lao to lớn của ông trong sự nghiệp chống Pháp xâm lược, bảo vệ đất nước thân yêu cuối thế kỷ XIX khi giặc Pháp mới đặt chân lên Xứ Lạng". (còn tiếp)
Bình luận (0)