Bài báo và công việc của nhà điêu khắc người Nhật đã làm lay động tâm hồn tôi, nó buộc tôi phải suy nghĩ về những hạt lúa đã nuôi mình lớn lên.
Ngày tôi còn bé, má tôi nói riêng và những người già của làng tôi nói chung đều có một thói quen: hễ dọn cơm lên ăn mà con cái làm rơi rớt hạt cơm, nếu là chỗ sạch, thì họ bắt nhặt lên ăn cho kỳ hết mới thôi. Nếu cơm rớt chỗ dơ bẩn thì họ dùng tay hay những dụng cụ sạch để nhặt lên mang đi cho gia súc ăn. Không bao giờ họ dùng chổi quét nhà để quét cơm. Nếu con cái lỡ chân giẫm phải hạt cơm đổ thì má tôi cứ xuýt xoa: "Tội chết con ơi". Tương tự như hạt cơm, hạt muối cũng được tôn trọng đến mê tín. Việc giẫm chân lên hạt muối là một điều cấm kỵ trong nếp sống của làng tôi.
Không chỉ có vậy, vào dịp ngày rằm và 30 âm lịch hằng tháng, dân làng tôi đều bày 2 đĩa gạo muối trên bàn ông thiên trước sân nhà để cúng trời đất. Hồi nhỏ tôi hỏi má sao không cúng những thứ quý hơn, thì má tôi nói: "Gạo, muối là hạt ngọc, có gì quý bằng hở con?".
Trong đời sống tinh thần của làng tôi, có một câu chuyện cổ tích về hạt lúa, rằng: Ngày xửa ngày xưa, hạt lúa to bằng trái dừa khô, đến mùa lúa chín thì lúa tự lăn vào nhà chủ ruộng. Hôm nọ, tại nhà một người đàn bà có máu mê cờ bạc, ngay trong lúc mụ ta gấp rút đến chiếu bạc thì lúa ngoài đồng lăn vào đầy nhà, choáng cả lối đi. Bực bội, mụ ta dùng chổi quét nhà vừa quét vừa đập, khiến hạt lúa bị bể ra. Kể từ đó, hạt lúa biến thành nhỏ xíu như bây giờ và khi chín nó không tự lăn vào nhà nữa.
Câu chuyện cổ tích ấy như sương như khói, lảng vảng trong đời sống bọn trẻ làng tôi từ thế hệ này cho đến thế hệ khác về sự phản ứng của hạt lúa, về thái độ nông dân với lúa.
Một đất nước nghèo, một làng quê nghèo, một bà mẹ nghèo khi làm ra hạt lúa để nuôi ta lớn khôn hẳn phải tốn nhiều mồ hôi, nước mắt hơn hẳn những làng nước khá giả. Các nhà đạo đức gọi đó là công đức. Còn tôi, chỉ có thể gọi bừa nó là một phép tính. Ai không làm được phép tính ấy thì đã thiếu đi cái nhân cách con người.
Khi tôi lớn lên đi khỏi làng, có một ít trải nghiệm cuộc đời thì tôi mới ngộ được sự sùng tín hạt lúa của má tôi, của dân làng tôi. Đất đai của làng tôi xưa là một vùng đất nhiễm phèn mặn lâu đời, thời đó lại chưa có khoa học kỹ thuật tác động tới. Người làng tôi trồng lúa theo kinh nghiệm truyền từ đời này qua đời khác. Vì đất nhiễm phèn nên mùa sa mưa là các loại cỏ như: năn, lác, cỏ nước mặn thi nhau mọc lên ngang lưng quần. Nếu như cách canh tác thông thường ở ĐBSCL là đến mùa mưa người ta cày bừa rồi cấy thì ở làng tôi đất cỏ nhiều quá không thể cày mà dùng phảng phát cỏ. Phát xong thì chế (phát lại cho sạch cỏ) rồi mới cấy, mà không phải cấy tay như bình thường, phải dùng đến nọc cấy, chọc xuống đất cứng một lỗ để tra bụi mạ non vào. So với đất cày, cấy tay được thì đất phát cỏ, cấy nọc nặng nhọc gấp đôi. Tôi nhớ tháng tám mưa dầm, má tôi phải trầm mình dưới đồng sâu cấy đến đỏ đèn mới rồi một công cấy nọc. Lúa ở đồng làng tôi cấy xuống nở rất nhanh, thế nhưng đất có quá nhiều cỏ, lại có gốc phèn mặn nên chỉ cần thời tiết thay đổi một chút, ví như: hạn bà Chằn, dứt mưa sớm, gió bấc về sớm hơn thường niên... là lập tức những bụi lúa to bằng cái tô con gà bỗng héo úa, tàn lụi. Người nông dân "chết đứng" nhìn cánh đồng của mình, trong đôi mắt họ ngọn lửa hy vọng về một cái tết có pháo nổ, áo mới, nồi thịt kho hột vịt... cũng tàn lụi theo bụi lúa.
Chuyện mùa màng thất trắng xảy ra thường xuyên ở làng tôi, thế nên cái xóm lưa thưa những mái lá đó cứ nghèo ấp lẫm, tả tơi manh áo. Trong xóm có ai mời đám giỗ, dân làng tôi cũng chỉ có thể mang theo để góp phần một chai rượu đế 3 xị. Ai mà đi đám được hai chai rượu là đã có quyền ăn nói rổn rảng ở đám giỗ. Thời trẻ có dịp đi đưa dâu ra khỏi làng với bộ đồ cũ, tôi mang theo nỗi mặc cảm nặng nề và hay tự trách trời cao đất dày sao tôi lại sinh ra ở một cái làng nghèo đến như thế.
Những năm mùa màng thất trắng, ba tôi thì giận dữ bỏ đi qua vùng đất khác đập lúa mướn. Má và chị Hai tôi sáng tinh mơ đã cắp thúng ra đồng, lục lọi trong đám cỏ năn, cỏ nước mặn để tìm những bông lúa chắc còn sót lại. Họ đội nắng đến xế chiều về đến nhà cũng chỉ mót được mỗi người lùm lùm một thúng táo. Những hạt lúa đó có màu lem luốc chứ không sáng rỡ mây mẩy như lúa trúng mùa. Má tôi cho vào cái cối giã gạo rồi sàng ra được những hạt gạo sứt đầu mẻ trán và ốm còm như người dân quê tôi ốm yếu xanh lả vì thiếu dưỡng chất. Vậy mà rồi "giẻ rách cũng đỡ đần móng tay", những hạt gạo ấy trộn thêm khoai sắn đã giúp lũ anh em chúng tôi sống lây lất qua mùa giáp hạt để chờ mùa vụ tới. Tôi nhớ như in cái hương vị của hạt cơm đó, nó ít chất béo ngọt hơn vị mặn. Phải chăng cái vị mặn ấy có được do mồ hôi, nước mắt của má tôi và chị Hai tôi tưới lên.
Chính vì làm ra hạt lúa nó khó khăn đến "chảy máu con mắt" như thế nên dân làng tôi quý trọng hạt lúa đến sùng tín. Như thể hạt lúa là vật linh, trong hạt lúa có cả linh hồn.
Mỗi thời đại, mỗi vùng miền giá trị dinh dưỡng, giá trị tiền bạc của hạt lúa ít bị thay đổi, nhưng nó thay đổi rất lớn cái giá trị lao động làm ra hạt lúa.
Có một bài toán của hạt lúa và cuộc đời rất dễ tính như cộng, trừ, nhân, chia nhưng không hẳn là ai cũng làm được phép tính ấy. Một đất nước nghèo, một làng quê nghèo, một bà mẹ nghèo khi làm ra hạt lúa để nuôi ta lớn khôn hẳn phải tốn nhiều mồ hôi, nước mắt hơn hẳn những làng nước khá giả. Các nhà đạo đức gọi đó là công đức. Còn tôi, chỉ có thể gọi bừa nó là một phép tính. Ai không làm được phép tính ấy thì đã thiếu đi cái nhân cách con người.
Bình luận (0)