Những câu chuyện thời hoa lửa

Khúc tráng ca biệt động: 16 tuổi hoạt động bí mật trong lòng đất

Huy Đạt
Huy Đạt
20/12/2025 06:00 GMT+7

16 tuổi, ông Phạm Kiều Đa đã chọn hoạt động trong lòng đất, trở thành chiến sĩ biệt động nội đô Đà Nẵng. Những năm tháng sống giữa vòng vây kẻ thù, chiến đấu trong im lặng và hiểm nguy, đã làm nên một tuổi trẻ hiếm có, lặng thầm mà phi thường.

CHIẾN ĐẤU… KHÔNG THẤY MẶT TRỜI

Một buổi chiều se lạnh giữa tháng 12, nhóm PV Thanh Niên men theo phố Phạm Phú Thứ (P.Hải Châu), lẫn giữa dòng du khách đang đổ về bờ đông sông Hàn để tìm đến nhà Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Phạm Kiều Đa. Đón tiếp chúng tôi bằng sự gần gũi, giản dị, ông Đa vui vẻ nhận lời tham gia chương trình giao lưu trực tuyến "Những câu chuyện thời hoa lửa" do T.Ư Đoàn chỉ đạo, Báo Thanh Niên thực hiện.

 - Ảnh 1.

Ông Phạm Kiều Đa nhắn nhủ thanh niên sống có lý tưởng, cống hiến cho đất nước

ẢNH: HUY ĐẠT

Ở tuổi 16, khi nhiều người còn đang nghĩ đến tương lai mơ mộng phía trước, ông Phạm Kiều Đa đã lựa chọn con đường sinh tử, trở thành chiến sĩ biệt động nội đô Đà Nẵng. Không lễ xuất quân, không cờ hoa, chỉ là một quyết định lặng lẽ nhưng dứt khoát: đi theo cách mạng, đi vào nơi nguy hiểm nhất để chiến đấu giành độc lập, thống nhất đất nước.

Ông Đa lớn lên ở làng Cổ Mân, vùng quê Đà Nẵng bị bom đạn cày xới, nơi cái chết luôn rình rập. Nhìn cảnh làng xóm tan hoang, người dân bị đàn áp… chàng trai trẻ đã sớm hun đúc lòng căm thù giặc và khát vọng giải phóng quê hương.

"Những câu thơ của nhà thơ Tố Hữu đến với tôi như một lời thức tỉnh. "Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ/Mặt trời chân lý chói qua tim…". Từ khoảnh khắc ấy, cuộc đời tôi gắn trọn với 2 chữ Tổ quốc", ông Đa nhớ lại.

Theo ông Đa, biệt động nội đô là lực lượng đặc biệt không chỉ bởi cách đánh, mà còn bởi cách sống. Họ tồn tại giữa trung tâm kiểm soát dày đặc của kẻ thù, nơi mọi ánh nhìn đều có thể là nghi ngờ, mỗi bước đi đều phải trả giá bằng chính sinh mạng nếu sơ sẩy.

"Chỉ cần sai một chi tiết nhỏ là đổ máu, thậm chí mất mạng ngay. Trong hoàn cảnh ấy, mỗi bước đi, mỗi quyết định đều phải được tính toán bằng sự tỉnh táo và kỷ luật sắt. Ranh giới giữa sự sống và cái chết khi đó mong manh đến nghẹt thở", ông Phạm Kiều Đa nói.

Có những giai đoạn ông Đa và đồng đội sống triền miên dưới hầm bí mật, ngày ẩn mình, đêm mới lên mặt đất hoạt động. Có lúc hàng tháng trời không thấy ánh mặt trời, không biết mưa nắng ra sao, chỉ biết nhiệm vụ còn đó, đồng đội còn đó và quyết tâm chiến đấu.

Trong các căn hầm bí mật nội đô Đà Nẵng, đã có 17 người xuống, và chỉ 3 người sống sót, tất cả đều mang thương tích suốt đời. Sự tồn tại của biệt động không thể tách rời vòng tay che chở của nhân dân, của những gia đình lặng lẽ đào hầm, nuôi giấu cán bộ ngay giữa lòng địch. "Không có dân, biệt động không thể tồn tại", ông Đa nói với giọng trầm xuống.

Một trong những ký ức ông Đa không thể quên là trận phá kho bom sân bay Đà Nẵng, nhằm cắt nguồn tiếp tế cho mặt trận Thượng Đức. Ông Đa kể, chiến sĩ được chọn thực hiện nhiệm vụ là người đang làm việc ngay trong sân bay địch. Người này chưa từng đánh đặc công, chưa quen với thuốc nổ. Trong thời gian ngắn ngủi, ông Phạm Kiều Đa trực tiếp huấn luyện, truyền lại từng thao tác, từng nguyên tắc sinh tử.

"Bốn quả mìn được đặt vào 4 dãy kho. Kíp nổ chậm được cài. Thời khắc quyết định trôi qua. 7 giờ sáng, không tiếng nổ. 8 giờ, vẫn im lặng. Chiến sĩ buộc phải quay lại kho bom, nơi chỉ cần một sai sót là tan xác. Và rồi, một tiếng nổ long trời lở đất vang lên, phá hủy toàn bộ kho bom với hàng chục ngàn quả. Trận đánh thành công, không chỉ bởi sức công phá, mà bởi sự bình tĩnh, trí tuệ và lòng dũng cảm đến tận cùng của người lính biệt động", ông Đa nhớ lại.

CÓ NHỮNG HY SINH KHÔNG THỂ GỌI TÊN

Chiến tranh không chỉ có chiến công, mà còn chất chồng những mất mát không thể bù đắp. Ông Đa kể về một đồng đội bị địch tra tấn ngay trên miệng hầm bí mật, trong khi bên dưới, ông và một chiến sĩ khác đã cầm sẵn lựu đạn, sẵn sàng hy sinh nếu hầm bị lộ. Người chiến sĩ ấy chịu đòn suốt hàng chục giờ liền, đến khi hy sinh vẫn không khai một lời. "Đồng chí hy sinh để tôi còn sống", ông Đa rưng rưng.

 - Ảnh 2.

Anh hùng Phạm Kiều Đa theo dõi Báo Thanh Niên hằng ngày suốt nhiều năm nay

ẢNH: HUY ĐẠT

Và đến ngày 29.3.1975, chiến sĩ biệt động Nguyễn Văn Dự đã anh dũng ngã xuống trên đường phố Đà Nẵng, trước giờ toàn thắng đúng 2 tiếng đồng hồ. Một cái chết lặng lẽ nhưng được khắc sâu trong ký ức những người còn sống, như một lời nhắc nhở về cái giá của hòa bình.

Chiến tranh kết thúc, người lính biệt động bước vào một mặt trận khác, xây dựng lại thành phố từ đổ nát. Ông Đa chỉ huy lực lượng gỡ hàng vạn quả mìn, giải phóng đất đai cho người dân sản xuất; đảm nhiệm nhiều cương vị công tác, góp phần đặt nền móng cho sự phát triển của Đà Nẵng hôm nay.

Ở tuổi gần 80, Anh hùng Phạm Kiều Đa không nói nhiều về chiến công của mình. Ông dành nhiều lời nhắn nhủ trách nhiệm đến thế hệ trẻ.

"Yêu nước hôm nay không chỉ là cầm súng ra chiến trường như những năm tháng chiến tranh, mà là sẵn sàng dấn thân trên nhiều mặt trận của thời bình. Đó là tinh thần trách nhiệm trong học tập, sự tận tụy trong lao động, khát vọng làm chủ khoa học công nghệ và ý thức cống hiến bền bỉ cho cộng đồng. Khi mỗi người trẻ sống tử tế, làm việc nghiêm túc và không ngừng sáng tạo cũng chính là cách thiết thực nhất để góp sức xây dựng một đất nước VN ngày càng giàu mạnh, văn minh", ông Phạm Kiều Đa nhắn gửi.

Nói về thế hệ trẻ hôm nay, Anh hùng Phạm Kiều Đa bày tỏ ngay sự tin tưởng. Theo ông Đa, nếu tuổi trẻ trong chiến tranh phải yêu nước bằng súng đạn và sự hy sinh, thì tuổi trẻ thời bình đang đứng trước những "mặt trận mới", nơi trí tuệ, tri thức và công nghệ trở thành vũ khí quan trọng nhất.

"Thanh niên hôm nay rất thông minh, rất giỏi. Chỉ số IQ của người VN thuộc nhóm cao trong khu vực Đông Nam Á. Quan trọng hơn, chưa bao giờ tuổi trẻ VN có điều kiện tiếp cận nguồn tri thức phong phú, toàn diện và hiện đại như bây giờ", ông Đa chia sẻ.

Ông Đa cũng nhìn nhận, trong thời đại chuyển đổi số, công nghệ đã thâm nhập mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, quản lý nhà nước đến an ninh - quốc phòng. "Số hóa bây giờ chính xác đến từng nano mét, không phải là chuyện sai một li đi một dặm nữa. Đó là công nghệ cực kỳ khắt khe, đòi hỏi người làm phải có kiến thức, bản lĩnh và tư duy rất cao", ông Đa nhấn mạnh.

Theo người anh hùng biệt động, nếu đặt người trẻ hôm nay vào bất kỳ "chiến trường" nào, kể cả quốc phòng hay an ninh thì tri thức và năng lực của họ đều đủ sức đảm đương. Nhưng đặc biệt, ở mặt trận chuyển đổi số, không ai có lợi thế hơn tuổi trẻ. "Cái này chỉ có thanh niên mới làm được. Người trẻ có tốc độ, có sáng tạo, có khả năng làm chủ công nghệ", ông Đa nói.

Nhắc lại hình ảnh liệt sĩ biệt động Nguyễn Văn Dự, ông Đa cho rằng tinh thần yêu nước của thế hệ đi trước vẫn còn nguyên giá trị, chỉ khác ở cách thể hiện. "Ngày xưa chúng tôi yêu nước bằng máu xương. Hôm nay, các bạn yêu nước bằng tri thức, bằng hành động cụ thể, bằng việc xây dựng và bảo vệ đất nước trong hòa bình", ông Đa nói.

"Tôi hết sức tin tưởng vào tuổi trẻ hôm nay. Với trí tuệ, với tinh thần yêu nước và khát vọng cống hiến, các bạn hoàn toàn xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, của nhân dân và của những thế hệ đã ngã xuống", Anh hùng Phạm Kiều Đa nhắn gửi.

Trong cuộc kháng chiến, đặc biệt giai đoạn 1970-1975, lực lượng biệt động cánh đông Đà Nẵng phát triển mạnh, chiến đấu dũng cảm, hiệu suất cao, liên tiếp mở nhiều trận đánh ngay trong căn cứ liên hợp quân sự Đà Nẵng, vận dụng linh hoạt các hình thức tác chiến. Tham gia chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng (tháng 3.1975), trên cương vị Phó quận đội trưởng quận nhất (TP.Đà Nẵng), Chỉ huy trưởng Biệt động cánh đông, ông Phạm Kiều Đa chỉ huy lực lượng thọc sâu đánh chiếm các cơ quan đầu não địch, góp phần giải phóng Đà Nẵng ngày 29.3.1975. Kết thúc chiến tranh, nhiều cán bộ, chiến sĩ biệt động được tặng thưởng Huân chương Chiến công; riêng ông Phạm Kiều Đa được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.