Đó là chia sẻ từ bà Nguyễn Thị Nga, điều phối viên dự án của Trung tâm Nghiên cứu nông nghiệp quốc tế Úc tại Việt Nam (ACIAR), chia sẻ tại diễn đàn kết nối nông sản 970, ngày 28.2 về chủ đề: Thúc đẩy số hóa trong truy xuất nguồn gốc nông sản - thực phẩm.
Bà Nga cho biết, ACIAR đang triển khai dự án thí điểm kiểm soát việc tuân thủ quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGap) và chất lượng bằng kỹ thuật số trong chuỗi giá trị rau Việt Nam trên diện tích 40.000 ha ở 2 huyện Vân Hồ và Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Dự án này giúp nông dân ứng dụng ghi chép điện tử nhập thông tin sản xuất, in tem nhãn tại trang trại với mã QR và mã vạch cho các nhà bán lẻ và người tiêu dùng.
Mỗi năm, 2 huyện này sản xuất 70.000 tấn rau theo quy trình VietGap với tổng trị giá khoảng 30 triệu USD. Qua đánh giá, rau áp dụng quy trình VietGap có năng suất cao hơn 110%. Khi khảo sát trên thị trường, đa số người tiêu dùng sẵn sàng chi trả thêm 30 - 40% chi phí để chọn rau có chứng nhận VietGap.
Cũng theo bà Nga, cuộc khảo sát ghi nhận thực tế là gần như tất cả người tiêu dùng cho rằng bao bì, chứng nhận và nhãn mác trên bao bì là yếu tố rất quan trọng. Đa số người tiêu dùng đều sử dụng mã QR để kiểm tra sản phẩm nhưng không kiểm tra thường xuyên do tin tưởng vào nhãn hiệu.
Thông qua phần mềm liên kết, người tiêu dùng chỉ cần quét mã QR sẽ được cung cấp thông tin về cơ sở sản xuất, cây trồng. Ngược lại, nhà bán lẻ chỉ cần quét mã QR sẽ kiểm tra được thông tin về VietGAP và sự tuân thủ, truy xuất nguồn gốc, nhiệt độ và độ ẩm trong quá trình vận chuyển. Bên cạnh đó, nhật ký truy xuất việc tuân thủ VietGAP cho từng chuyến hàng sẽ được hệ thống xây dựng báo cáo tuân thủ cho từng lô hàng, được lưu trữ bằng điện toán đám mây.
Bà Nga cho rằng, ứng dụng mã QR rất hữu ích cho nhóm nông sản được tiêu thụ tươi trực tiếp như: cà chua, dưa chuột, trái cây có vỏ mỏng… Người tiêu dùng chỉ cần quét mã QR sẽ nhận được những thông tin về vùng sản xuất, nhà đóng gói, trọng lượng gói sản phẩm, hạn sử dụng, chứng nhận…
Theo ông Henry Bùi, Tổng giám đốc Công ty TNHH một thành viên khoa học công nghệ Hoàn Vũ, mỗi năm doanh nghiệp này chứng nhận, kiểm định khoảng 3.000 lô hàng thanh long, 50.000 lít mật ong xuất khẩu vào EU, Mỹ và chưa có lô hàng bị trả lại do còn tồn dư kháng sinh, hóa chất đáp ứng yêu cầu của nước nhập khẩu.
"Đối với những thị trường có tiêu chuẩn khắt khe, khó tính như EU, Mỹ, Australia… truy xuất nguồn gốc là một mắt xích quan trọng của hệ thống tiêu chuẩn về hàng hóa nhập khẩu. Nhưng để làm được điều này, doanh nghiệp phải có sự gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng chuỗi cung ứng sản phẩm, hàng hóa nông sản với truy xuất nguồn gốc", ông Henry Bùi khuyến cáo.
Còn theo bà Nguyễn Thị Thành Thực, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc Công ty cổ phần Công nghệ phần mềm AutoAgri, việc truy xuất nguồn gốc và minh bạch thông tin sản phẩm là điều kiện vô cùng quan trọng, hữu ích đối với người sản xuất, đơn vị cung ứng sản phẩm để bảo vệ thương hiệu, quảng bá sản phẩm.
Nhưng để áp dụng được truy xuất nguồn gốc thì nền tảng ứng dụng phải linh hoạt, không thể đưa nền tảng đồng nhất ứng dụng cho tất cả mọi nơi được. "Trên thực tế, nông dân trong quá trình sản xuất, họ sáng tạo ra nhiều chế phẩm sinh học diệt sâu bệnh thì những chất này ghi chép vào hồ sơ hay không, hay lại sao chép thông tin của người khác. Theo đó, nền tảng phần mềm truy xuất phải để cho người dân được quyền nói thật, làm thật" bà Thực kiến nghị.
Bình luận (0)