Khi còn ở tuổi thiếu niên, tôi nghĩ rằng mình không có cha, khác với bạn bè cùng trang lứa. Sau này tôi mới hiểu, "nhắc đến cha là điều cấm kỵ, vì cha là Việt Minh tham gia kháng chiến chống thực dân và đi tập kết ở miền Bắc".
Mẹ tôi luôn dặn dò các con như vậy! Tôi cứ nghĩ tại sao cha là Việt Minh chống thực dân, mà lại không được nhắc đến; cũng như ông cố tổ Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân của chúng tôi - một chiến sĩ yêu nước kiên cường chống thực dân, người bị thực dân chặt đầu, mà sau này dưới ách thực dân và chính quyền tay sai, gia đình nội của mẹ tôi mỗi lần đi thăm mộ phải lén lút trong đêm?!
Tôi còn nhớ rõ như in, sau khi tiễn cha đi tập kết, được hơn một năm, trong một đêm vắng lặng bỗng nghe nhiều tiếng súng nổ chát chúa. Sáng hôm sau, mới biết có người bị lính phục kích bắn chết ngay phía sau nhà. Hai ngày sau đó, mới có người đến khiêng xác đi mai táng. Nhìn người chết được khiêng trên võng, mẹ tôi nghẹn ngào nói "người đàng mình đó con…".
Tuổi thơ của tôi bị dày xéo bởi những cảnh đau thương như vậy! Trong một dịp xem phim tài liệu, được nghe phát biểu của đồng chí Mai Chí Thọ (là một trong những người lãnh đạo vùng Nam bộ lúc bấy giờ) nói về cảnh tàn sát của đế quốc và chính quyền tay sai, sau Hiệp định Genève 1954. "Mười người chết bảy còn ba, chết hai còn một, mới ra thái bình…". Chúng ta mới có thể hình tượng lại sự đau thương đến tột cùng của đồng bào miền Nam lúc bấy giờ.
Ghi lại những ký ức này, tôi bày tỏ sự khởi đầu nhận thức cũng như tình cảm yêu nước của tôi. Đơn giản là chưa lý giải được căn nguyên và nguồn gốc cuộc đấu tranh trường kỳ để giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước của nhân dân ta, mà sau này khi bước vào tuổi trưởng thành, tôi mới thấu hiểu...
Cũng như bao chiến sĩ Quân giải phóng trên chiến trường miền Đông Nam bộ, tôi đã trực tiếp chiến đấu cho mục tiêu thống nhất đất nước.
Tôi nhớ mãi lời động viên đầy tâm huyết của đại tướng Nguyễn Chí Thanh: Phải có cặp mắt nhìn xuyên qua ác liệt thì mới thấy được thắng lợi. Các chiến sĩ của chúng ta ở thời điểm đó, quả thật đã thể hiện xứng đáng quyết tâm, ý chí, lòng dũng cảm, quyết chiến, quyết thắng quân xâm lược.
Trong dịp được tham gia làm bộ phim tài liệu Nhớ về Sài Gòn Mậu Thân 1968, tôi có phát biểu về ý nghĩa thắng lợi của sự kiện lịch sử này. "Tôi nghĩ không có một chiến thắng nào mà không trải qua ác liệt, hy sinh. Mậu Thân 1968 là một trong những điển hình đó, cái chúng ta được lớn nhất cần ghi nhận đầy đủ chính là vấn đề chiến lược…, để tiến tới sự kiện lịch sử - đại thắng mùa xuân 30.4.1975".
Nhìn lại lịch sử từ sau Mậu Thân 1968 đến ngày giành thắng lợi hoàn toàn 30.4.1975, chúng ta càng thấy Đảng ta đã thấm nhuần sâu sắc tư tưởng chiến lược của Bác Hồ về công cuộc bảo vệ độc lập, tự do, hạnh phúc, thống nhất non sông.
Ghi lại những dòng này, tôi bày tỏ những cảm xúc thể hiện khát vọng của một thanh, thiếu niên, một chiến sĩ trước vận mệnh của sự nghiệp giải phóng dân tộc… đã trải qua những thăng trầm, những thời điểm lịch sử của cuộc kháng chiến thống nhất non sông của nhân dân ta mà tôi đã được tham gia. Với cách nhìn, sự hiểu biết của tôi trong thời điểm lịch sử lúc bấy giờ.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến thống nhất non sông của nhân dân ta mà đỉnh cao có tính quyết định là đại thắng mùa xuân 1975 có ý nghĩa lịch sử sâu sắc. Là một trong những cơ sở lý luận và thực tiễn để Đảng ta định ra chủ trương, đường lối đúng đắn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hòa bình.
Song các thế lực thù địch, chủ nghĩa bành trướng bá quyền nước lớn với mưu đồ chiến lược của riêng họ đã hậu thuẫn, chỉ đạo bọn phản động Pol Pot tiến hành chiến tranh xâm lược trên biên giới Tây Nam của đất nước ta. Và thất bại trong chiến lược này, chúng không ngần ngại mở cuộc chiến tranh xâm lược trên toàn bộ tuyến biên giới phía Bắc. Với chiêu bài láo xược "dạy cho Việt Nam một bài học".
Có mặt vào thời điểm lịch sử trên chiến trường biên giới phía Bắc của Tổ quốc, tôi đã tận mắt nhìn rõ tội ác của quân xâm lược, và lòng căm thù của đồng bào ta, đặc biệt là đồng bào dân tộc, đã nghèo khó, lại bị giặc đốt phá nhà cửa gây biết bao đau thương, tang tóc…
Đất nước ta đã trải qua cuộc đấu tranh trường kỳ chống xâm lược. Ước vọng lớn nhất của mỗi chúng ta là giữ gìn hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước, mang lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
Tôi và gia đình cũng như bao đồng đội khác tin tưởng chắc chắn rằng: Không cách nào khác, Đảng ta phải kiên trì đường lối đổi mới, chủ động, sáng tạo phù hợp với quy luật khách quan, thực tiễn của đất nước và xu thế phát triển tất yếu của thời đại; nhằm đạt được mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Tạo dựng vị thế Việt Nam ngày càng rộng lớn trong cộng đồng quốc tế, khu vực và đặc biệt là các nước láng giềng.
Nỗ lực phấn đấu vì hòa bình, hợp tác cùng phát triển trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ chính trị của nhau, cùng có lợi, là phương sách để giữ gìn hòa bình, xây dựng và phát triển đất nước bền vững, thịnh vượng sau bao năm trường kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Mỗi chúng ta không được lãng quên con đường đầy hy sinh mất mát để cả dân tộc được hưởng hòa bình, ổn định, xây dựng đất nước phát triển như ngày hôm nay. Tất cả người dân Việt Nam dù ở trong nước hay ở nước ngoài, trăm triệu người như một đang chuẩn bị hành trang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Với những chủ trương, quyết sách mang tính đột phá: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo phù hợp; tinh gọn bộ máy; tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, tiếp tục chống tham nhũng, lãng phí và tiêu cực… cùng nhiều chủ trương lớn đồng bộ để đất nước ta có thể bay bổng, bay xa trong một thế giới đầy triển vọng nhưng cũng nhiều thách thức với đích đến sánh vai với các cường quốc năm châu…
Đó chính là khát vọng, là niềm tin làm sâu sắc thêm niềm tự hào dân tộc về cuộc kháng chiến chống ngoại xâm cũng như đại thắng mùa xuân năm 1975.
* Trung tướng Lưu Phước Lượng, nguyên Phó trưởng ban, Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ
Bình luận (0)