“Đặc sản” gió Lào

22/09/2020 08:00 GMT+7

"... Ngọn gió bỏng khi đi thành nỗi nhớ Cát khô cằn ở mãi hóa yêu thương" Những vần thơ của nữ sĩ Xuân Quỳnh bộc lộ tấm lòng thiết tha gắn bó với mảnh đất miền Trung nắng gió…

Đồng thời, cũng là sự khẳng định thực tế thiên nhiên đầy khắc nghiệt ở đây - cát trắng và gió Lào.
Chẳng có cơn gió nào lạ lùng như gió Lào quê tôi, gió mà nóng ran, rát da rát thịt. Sau khi vượt qua lãnh thổ Campuchia và Lào, gió mất đi một phần hơi ẩm, gặp dãy núi Trường Sơn hùng vĩ, trùng điệp không khí bị đẩy lên cao và mạnh nên hầu hết hơi nước đều bị ngưng kết lại tạo thành mưa và rơi hết xuống sườn phía Tây dãy Trường Sơn, khi gió thổi sang sườn phía Đông, gió trở nên khô và nóng. Trong dân gian lưu truyền câu nói: Tháng tư Nam non, tháng bảy Nam cồ, nghĩa là gió Lào ghé thăm eo đất miền Trung bắt đầu từ tháng tư, đỉnh điểm những trận gió Lào là tháng bảy và phải đến tháng chín khi những luồng gió lạnh phương Bắc tràn xuống thì gió Lào mới chịu ra đi.
Tháng tư về, những ngọn gió Lào đầu tiên lướt nhẹ qua khu vườn. Hòa lẫn trong âm thanh thánh thót của chim, tiếng rỉ rả của côn trùng, những ngọn gió lướt nhẹ rười rượi báo hiệu một mùa Nam nóng sắp tới. Rồi những ngọn gió Nam non thổi mạnh dần lên, trở nên hanh hao và khi vào chính vụ người dân quê tôi gọi là Nam ròng. Nam ròng thổi liên tục, ròng rã không ngừng nghỉ vần vũ từ ngày sang đêm ào ạt, bỏng rát. Mặt trời vừa hé rạng đông, những ngọn gió Lào hùa cùng với nắng rút dần chút hơi ẩm đầu ngày. Mặt trời càng lên cao, nhiệt độ tăng dần thì luồng khí nóng hầm hập phả vào người rát như kim châm. Từng đợt gió hung hãn tung mình trên những ngọn cây cao, thổi ù ù trên những mái nhà.
Qua mỗi đợt gió, cơn lốc bụi cuốn theo bay tung trời, hai bên đường cây cối bụi bám trắng xóa. Càng về trưa gió càng mạnh, cả dải đất miền Trung oằn mình trong sự nung đỏ hừng hực của nắng gió. Những ngọn cây cao nghiêng ngả, héo khô vặn vẹo yếu ớt, cây cỏ phía dưới rạp mình xuống, mái tranh khô cong, tre nổ lốp bốp. Có những ngày gió Lào thổi mạnh đến mức người dân quê tôi gọi “bão Lào”. Những bóng cây cổ thụ, ven bờ sông trở thành “cứu cánh” cho người dân mỗi ngày gió mạnh. Sự khắc nghiệt của gió Lào còn hằn in trên đôi bàn tay thô ráp, chai sạn, trên tấm áo đẫm mồ hôi hong thành những vệt muối trắng của cha, trong bóng dáng tảo tần, liêu xiêu trên triền đê của mẹ, hằn trên làn da đen nhẻm, cháy nắng của những đứa trẻ quê tôi. Nếu nói gió Lào, sự cằn cỗi là “đặc sản” miền Trung thì nỗi khắc khổ cũng là “thương hiệu” của người dân quê tôi.
Người miền khác đôi lần đi qua miền Trung vẫn e sợ cái nắng nóng của miền gió Lào cát trắng, sợ “chảo rang mùa hè” của dải đất eo thắt này. Giữa vùng đất “khắc bạc”, “nắng nẻ mưa nguồn” ấy, cái nghèo đói, thiếu thốn, cơ cực cứ bám riết lấy những người dân. Nhưng trên “mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt”, bao đời nay người dân quê tôi vẫn sống, vẫn bám trụ, gắn bó. Và phải chăng chính sự khắc nghiệt của thiên nhiên, trong nghịch cảnh ấy đã tôi luyện cho người dân quê tôi những khí chất đặc biệt, đó là sự bản lĩnh kiên cường, chịu khó, cần cù, tằn tiện. Thiên nhiên không ưu ái, không để cho người dân quê tôi được kiến tạo cuộc sống đủ đầy nhưng bằng sức mạnh, trí tuệ và niềm tin người dân quê tôi đã tự kiến tạo lấy cuộc đời bằng con đường học thức, bằng sự cần cù, chắt chiu, kiên cường. Có lẽ bởi thế dải đất miền Trung, con người miền Trung lưu dấu trong thơ ca trở thành niềm thương nỗi nhớ da diết: “Miền Trung/ Eo đất này thắt đáy lưng ong/ Cho tình người đọng mật” (Hoàng Trần Cương).
 
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.